Tin tức

Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện (khoá XI) trình Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ XII, nhiệm kỳ 2020-202

Phần thứ nhất:

TÌNH HÌNH THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ HUYỆN LẦN THỨ XI

            Triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XI trong điều kiện có một số chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước mới ban hành, đã tác động tích cực đến nhiều lĩnh vực đời sống, xã hội; tiềm năng lao động, đất đai, cùng với cơ sở hạ tầng đã được đầu tư...tiếp tục phát huy tác dụng, góp phần thúc đẩy sự phát triển ở địa phương. Song, huyện ta cũng đối mặt với không ít khó khăn, nhất là một số cơ chế, quy định...của trên có sự thay đổi, nên quá trình triển khai thực hiện còn lúng túng, vướng mắc, thời tiết diễn biến thất thường, giá cả nông sản thiếu ổn định...đã ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống nhân dân; nhưng Đảng bộ và nhân dân huyện nhà đã nỗ lực, phấn đấu thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra đạt nhiều kết quả, hoàn thành cơ bản hầu hết chỉ tiêu chủ yếu[1], tình hình các mặt huyện nhà giữ được ổn định, một số mặt có chuyển biến tích cực.

[1]
      Cụ thể trong biểu thống kê về kết quả và tiến độ thực hiện 11 chỉ tiêu chủ yếu (kèm theo dự thảo báo cáo này).

I. KẾT QUẢ VÀ TIẾN BỘ ĐẠT ĐƯỢC:

1. Tiếp tục thúc đẩy phát triển sản xuất nông nghiệp đi đôi với xây dựng nông thôn mới. Kịp thời cụ thể hóa và triển khai thực hiện nghiêm túc chủ trương của Đảng về nông nghiệp, nông dân, nông thôn gắn với tiếp tục đẩy mạnh xây dựng nông thôn mới, trong đó điều chỉnh chỉ tiêu đạt chuẩn nông thôn mới đến năm 2020 (ít nhất 09 xã) cho phù hợp với quy định và thực tế ở địa phương[1].

- Tập trung triển khai Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp, trọng tâm là cơ cấu lại ngành trồng trọt. Tiếp tục đầu tư, nâng cấp, phát huy hiệu quả hệ thống thủy lợi, gắn triển khai Đề án khơi thông dòng chảy kênh tiêu thoát lũ và sông, suối tự nhiên (kiên cố hóa 1,7km kênh chính, trên 35km kênh cấp 1 và gần 10km kênh nội đồng và phát dọn, nạo vét gần 212km/73 tuyến), góp phần nâng tỷ lệ tưới chủ động lên hơn 90% và khắc phục dần tình trạng ngập úng. Từng bước hình thành một số vùng chuyên canh cây trồng có lợi thế (thanh long, cà phê, cây ăn quả...); quan tâm công tác hỗ trợ khắc phục thiên tai, khôi phục sản xuất; chủ động phòng, chống dịch bệnh, có chú ý quản lý chất lượng nông lâm thủy sản; tăng cường công tác khuyến nông và chuyển giao tiến bộ kỹ thuật; tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chương trình phát triển thanh long bền vững, khuyến khích ứng dụng công nghệ cao, liên kết sản xuất và tiêu thụ nông sản[2]..., nên hiệu quả có nâng lên, giá trị sản xuất từ 115,7 triệu đồng/ha (năm 2015) tăng lên 148 triệu đồng/ha (năm 2020), vượt chỉ tiêu đề ra (120 triệu/ha). Chăn nuôi có sự chuyển dịch sang hình thức trang trại, gia trại theo hướng công nghiệp và bán công nghiệp, có kiểm soát an toàn dịch bệnh và môi trường; ở địa phương hiện có 02 trang trại chăn nuôi heo tập trung đang xây dựng và 09 trang trại đang hoạt động (quy mô 44 ngàn con), 03 trang trại nuôi gà tập trung (quy mô gần 100 ngàn con), góp phần nâng tỷ trọng trong ngành nông nghiệp lên hơn 30%.

 

- Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới được chỉ đạo quyết liệt, có trọng tâm, trọng điểm; tập trung đầu tư đối với các xã chưa đạt chuẩn đi đôi với nâng chuẩn các xã đã được công nhận và từng bước xây dựng “xã nông thôn mới nâng cao” Hàm Trí; phong trào thi đua “Chung sức, chung lòng xây dựng nông thôn mới” được phát động rộng khắp với phương châm “Nhân dân làm, Nhà nước hỗ trợ”, nên đã huy động được sự tham gia tích cực của cộng đồng, góp phần tạo thêm một số kết quả mới. Theo chuẩn giai đoạn 2016-2020, dự kiến cuối năm 2020, toàn huyện đạt 285 tiêu chí (tăng 42 so năm 2015), có 10 xã đạt chuẩn nông thôn mới (Hàm Trí, Hàm Phú, Hồng Sơn, Hàm Đức, Hàm Chính, Hàm Hiệp, Hàm Liêm, Thuận Minh, Hàm Thắng, Hồng Liêm), huyện đạt và giữ chuẩn 05 tiêu chí (2,3,4,8,9), bảo đảm chỉ tiêu theo kế hoạch đã được đề cập ở trên.

- Tiếp tục đầu tư phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số; hoàn thành giao đất sản xuất (Đông Giang 42ha/75hộ, La Dạ 41,3ha/70hộ); đầu tư các tuyến giao thông, cầu dân sinh và nâng cấp hồ Saluon (Đông Giang), kiên cố hóa kênh, mương nội đồng thôn Dân Hiệp (Thuận Hòa), Kukê (Thuận Minh); quan tâm thực hiện chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất và đời sống, đi đôi với tuyên truyền, vận động đồng bào xây dựng đời sống văn hóa, bảo tồn và phát huy giá trị truyền thống, bài trừ hủ tục lạc hậu...Nhờ vậy, tình hình các mặt có cải thiện hơn trước; tỷ lệ hộ nghèo từ 29,75% (năm 2015) giảm còn 20% (năm 2020), thu nhập bình quân đầu người năm 2020 tăng khá so năm 2015 (Đông Tiến hơn 23,5 lên 34,2 triệu đồng, Đông Giang gần 24 lên xấp xỉ 34 triệu đồng, La Dạ trên 23,7 lên 33,6 triệu đồng...), các thôn Dân Hiệp (Thuận Hòa), Kukê (Thuận Minh) không còn trong diện khó khăn..., góp phần củng cố niềm tin của đồng bào đối với Đảng, Nhà nước.

2. Các thành phần kinh tế tiếp tục được khuyến khích phát triển. Thông qua công tác tuyên truyền, vận động, thuyết phục, tinh thần khởi nghiệp, sáng tạo bước đầu lan tỏa trong cộng đồng. Doanh nghiệp, hộ kinh doanh phát triển đa dạng trên nhiều lĩnh vực, quy mô hoạt động sản xuất, kinh doanh tiếp tục mở rộng, nhiều sản phẩm mới được thị trường ưa chuộng. Kinh tế trang trại có bước phát triển, quy mô tăng hơn trước; trong đó chuyên trồng trọt 115, chăn nuôi 05 và loại hình tổng hợp 22 trang trại, bình quân hơn 05 ha/trang trại, với gần 560 lao động thường xuyên, doanh thu hàng năm hơn 160 tỷ đồng.

Kinh tế tập thể được quan tâm củng cố; đã giải thể các hợp tác xã hoạt động yếu kém và thành lập mới một số hợp tác xã theo quy định, nâng lên hiện nay toàn huyện có 25 hợp tác xã nông nghiệp; các tổ chức kinh tế này từng bước đổi mới phương thức hoạt động, đa dạng hóa các dịch vụ nông nghiệp và tạo ra sản phẩm mới (rượu vang thanh long, thanh long sấy khô, thanh long sấy dẻo...), chủ động liên kết để tạo ra chuỗi liên kết giá trị trong sản xuất và tiêu thụ thanh long VietGAP. Các hình thức hợp tác ngày càng phát triển đa dạng, phát huy tốt hiệu quả trong sản xuất và nâng cao thu nhập cho các thành viên.

3. Quan tâm hơn việc cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh; tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất công nghiệp, hoạt động dịch vụ phát triển. Giá trị sản xuất công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp hàng năm trên 2.200 tỷ đồng, tốc độ tăng trưởng bình quân hơn 6,97%/năm; các sản phẩm chủ lực tăng nhanh cả về số lượng, chất lượng, ngoài các sản phẩm từ thanh long nêu trên, có thêm một số sản phẩm mới (dây kéo, khóa...), đáp ứng yêu cầu đa dạng của thị trường.

- Công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng ở khu vực Tà-zôn (Hàm Đức) tiếp tục phát triển, góp phần bảo đảm nhu cầu về vật tư cho hoạt động xây dựng trong và ngoài địa phương. Thường xuyên phối hợp, đôn đốc tiến độ triển khai dự án tại các cụm công nghiệp; trong đó Công ty cổ phần May xuất khẩu Phú Long (cụm công nghiệp Phú Long) hoạt động hiệu quả nhiều năm liên tục và hiện đang lập các thủ tục để đầu tư cơ sở hạ tầng với diện tích 4,8 ha, công ty TNHH MK Sugar Việt Nam và Trạm biến áp 110 KV (cụm công nghiệp Ma Lâm) đang hoạt động, nhà máy dây khóa kéo (cụm công nghiệp Hàm Đức) đã đi vào hoạt động và nhà đầu tư đang lập các thủ tục đầu tư tại cụm công nghiệp Hồng Liêm. Có 03 dự án điện năng lượng mặt trời ở Thuận Minh, Hàm Phú và trạm truyền tải Đa Mi hiện đã đi vào hoạt động; nhiều công trình điện trung, hạ thế được đầu tư hoàn thành, nâng tỷ lệ hộ sử dụng điện toàn huyện lên 99%. Ngành nghề truyền thống, nhất là chế biến bún, bánh tránh, bánh hỏi, bánh phở, mộc dân dụng.... hoạt động ổn định, một số cơ sở mạnh dạn đầu tư máy móc, thiết bị, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, đáp ứng tốt hơn thị hiếu của người tiêu dùng.

- Hoạt động thương mại, dịch vụ tiếp tục mở rộng, tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm đạt mức cao và vượt chỉ tiêu đề ra (12,17/8,5%), tỷ trọng chiếm 27,96% trong tổng sản phẩm địa phương (GRDP); khu thương mại-dịch vụ Bến Lội-Lại An có bước phát triển, đóng góp tích cực cho ngân sách huyện; khu dân cư-tiểu thủ công nghiệp-thương mại-dịch vụ Hàm Thắng-Hàm Liêm đang triển khai đầu tư giai đoạn 1 (diện tích 20 ha) và giai đoạn 2 (quy mô 9,8 ha), một số nhà đầu tư đang lập thủ tục đầu tư giai đoạn tiếp theo. Hệ thống chợ nông thôn tiếp tục đầu tư xây dựng mới và nâng cấp từ ngân sách nhà nước, kinh phí của doanh nghiệp và đóng góp của tiểu thương, với hơn 100 tỷ đồng[3]; có thêm loại hình siêu thị (điện máy, bách hóa xanh) tại thị trấn Ma Lâm; hoạt động cung ứng vật tư, hàng hóa thiết yếu, tiêu thụ nông sản cho đồng bào dân tộc thiểu số vùng cao khá kịp thời. Giá trị xuất khẩu các mặt hàng chủ yếu hàng năm trên 52 triệu USD, tăng bình quân 9,3%. Loại hình vận tải công cộng tiếp tục mở rộng; dịch vụ bưu chính-viễn thông cơ bản phủ sóng toàn huyện, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của nhân dân.

4. Hệ thống kết cấu hạ tầng được đầu tư tăng thêm đáng kể, khắc phục dần tình trạng yếu kém, thiếu đồng bộ. Tranh thủ kịp thời nguồn vốn từ ngân sách đi đôi với khai thác hiệu quả nguồn nội lực trong đầu tư xây dựng cơ bản. Giá trị khối lượng xây dựng tăng khá, ước đạt gần 3,4 ngàn tỷ đồng (bao gồm kinh phí bồi thường cao tốc Bắc-Nam phía Đông), vượt 2,8% chỉ tiêu đề ra.

- Nhiều công trình giao thông quan trọng được quan tâm đầu tư, nâng cấp, nhất là các tuyến đường kết nối (SaRa-Tầm Hưng, Hàm Trí-Hồng Sơn, Ma Lâm-Hồng Sơn, Ma Lâm-Hàm Chính, ĐT 714, đường dọc kênh liên huyện...), cầu 30/4, cầu Móng (Ma Lâm)..., cùng với hạ tầng viễn thông, điện, nước sinh hoạt...tiếp tục được đầu tư mở rộng, đã tạo thêm điều kiện thuận lợi để thu hút đầu tư, phát triển sản xuất và phục vụ đời sống nhân dân.

- Cơ sở hạ tầng ở các xã về đích nông thôn mới được đầu tư khá đồng bộ, bảo đảm đạt các tiêu chí; phong trào làm giao thông nông thôn, trọng tâm là bê tông xi măng, tiếp tục được đẩy mạnh, hàng năm, có thêm hơn 25km đưa vào sử dụng. Từng bước đầu tư xây dựng, phát triển đô thị, bên cạnh việc tiếp tục xây dựng “tuyến phố văn minh”, chấn chỉnh công tác quản lý trật tự đô thị, cảnh quang, môi trường..., đã ưu tiên đầu tư chỉnh trang thị trấn Ma Lâm[4], nên bộ mặt trung tâm huyện lỵ ngày một khởi sắc.

- Quan tâm đầu tư trên lĩnh vực giáo dục, giá trị ước đạt trên 1.200 tỷ đồng, hầu hết các trường học đều được đầu tư nâng cấp khang trang. Hoàn thành đầu tư các phòng khám đa khoa khu vực Phú Long và Đông Giang; nâng cấp, mở rộng 14 trạm y tế xã, góp phần bảo đảm chỉ tiêu 100% trạm y tế đạt chuẩn quốc gia về y tế.

- Tiếp tục đầu tư trụ sở làm việc và nhà văn hóa xã, thị trấn; đồng thời xây mới và sửa chữa, nâng cấp một số cơ quan, đơn vị huyện, cơ bản đáp ứng yêu cầu làm việc của cán bộ, công chức, viên chức.

5. Lĩnh vực tài chính, tín dụng có tiến bộ trên một số mặt. Tăng cường các biện pháp quản lý, khai thác nguồn thu, chú trọng công tác chống thất thu..., nên thu ngân sách hàng năm đều vượt dự toán Tỉnh giao, tốc độ tăng thu bình quân hàng năm trên 17%, vượt chỉ tiêu đề ra (15%), góp phần bảo đảm kinh phí cho công tác an sinh xã hội, quốc phòng, an ninh, thực hiện tốt các nhiệm vụ chính trị quan trọng và tăng thêm nguồn lực cho đầu tư xây dựng cơ bản.

- Chi ngân sách đúng quy định, thực hiện tiết kiệm, chống lãng phí đạt yêu cầu, đáp ứng hoạt động và thực hiện nhiệm vụ trọng tâm, bức xúc. Thường xuyên kiểm tra, hướng dẫn công tác quản lý, sử dụng ngân sách theo đúng quy định, hàng năm, thẩm tra quyết toán trên 99% đơn vị thụ hưởng ngân sách; quản lý ngân sách xã, thị trấn có tiến bộ, giảm bớt khó khăn và áp lực trong điều hành; xử lý cơ bản tồn đọng, vướng mắc về quản lý, sử dụng các khoản đóng góp theo quy chế dân chủ, hoàn ứng dần khoản tạm ứng ngân sách tỉnh để xử lý nợ bảo hiểm xã hội ở những năm trước (8/26 tỷ đồng) và giải quyết dứt điểm nợ bảo hiểm xã hội của các xã, thị trấn.

- Hoạt động tín dụng, ngân hàng phát triển khá; doanh số cho vay của các chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện đạt trên 1.000 tỷ đồng, Ngân hàng Chính sách xã hội huyện hơn 400 tỷ đồng và của các Quỹ tín dụng nhân dân trên 750 tỷ đồng. Các tổ chức tín dụng, ngân hàng đã tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế, hộ gia đình vay vốn phát triển sản xuất, kinh doanh...; nhờ đó, quy mô kinh tế huyện mở rộng, chất lượng sản phẩm nâng lên, tạo thêm sinh kế, tăng thu nhập, cải thiện đời sống nhân dân, góp phần tích cực vào tăng trưởng chung toàn huyện.

          6. Tiếp tục chấn chỉnh, tăng cường các biện pháp quản lý đất đai, tài nguyên, khoáng sản, rừng và bảo vệ môi trường. Có cố gắng triển khai công tác lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất và kiểm kê đất đai theo chỉ đạo, hướng dẫn của cấp trên[5]. Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hàng năm đều đạt và vượt kế hoạch. Thường xuyên chỉ đạo khắc phục hạn chế, yếu kém trong công tác quản lý nhà nước về đất đai, khoáng sản, môi trường; tăng cường kiểm tra, ngăn chặn, xử lý vi phạm, nhất là sử dụng đất sai mục đích, khai thác khoáng sản trái phép. Tập trung chỉ đạo giải quyết một số vụ, việc tồn đọng trên lĩnh vực đất đai[6].

          - Hoàn thành cơ bản việc di dời các cơ sở thu mua phế liệu ra khỏi khu dân cư tập trung; tiếp tục mở rộng địa bàn thu gom rác thải, chú ý kiểm tra việc bảo đảm vệ sinh môi trường các trang trại chăn nuôi heo, cơ sở sản xuất, kinh doanh..., khắc phục dần tình trạng ô nhiễm, nhất là ở các chợ và khu dân cư tập trung. Triển khai Đề án đầu tư hệ thống thoát nước khu dân cư theo phương châm “Nhân dân làm, Nhà nước hỗ trợ” đạt kết quả bước đầu và tạo sự đồng tình trong dân.

          - Công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng được tăng cường, thường xuyên kiểm tra, xử lý ngăn chặn các trường hợp vi phạm; tiếp tục giao khoán quản lý, bảo vệ rừng gắn với trồng rừng và cây phân tán, nâng độ che phủ thêm 1,07% so năm 2015 (từ 61,43 lên 62,5%). Có chú ý kiểm tra, đôn đốc thúc đẩy tiến độ triển khai các dự án đầu tư trên lĩnh vực nông-lâm nghiệp, góp phần cải tạo môi trường sinh thái, giải quyết việc làm cho lao động nông thôn.

7. Các hoạt động văn hóa-xã hội có thêm những chuyển biến tích cực.

7.1. Chất lượng giáo dục cơ bản được giữ vững, có mặt nâng lên. Đã sáp nhập một số trường học theo lộ trình đề ra, từ 86 giảm còn 75 trường hiện nay (mẫu giáo 19, tiểu học 35, trung học cơ sở 15, liên cấp 03, trung học phổ thông 03); cơ sở vật chất, trang thiết bị được quan tâm đầu tư, nhất là xây thêm phòng học, bếp ăn phục vụ 100% trẻ 05 tuổi học 02 buổi/ngày và tổ chức bán trú; tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chủ trương xã hội hóa về giáo dục[7]; các hoạt động khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập ngày càng mở rộng; chất lượng giải thưởng “Lê Quý Đôn” tiếp tục nâng lên. Nhờ vậy, Huyện tiếp tục giữ chuẩn phổ cập giáo dục mầm non trẻ 05 tuổi, phổ cập tiểu học đúng độ tuổi và phổ cập giáo dục trung học cơ sở; hàng năm, huy động gần 100% trẻ 05 tuổi vào mẫu giáo, trẻ 06 tuổi vào lớp 1; tỷ lệ học sinh tiểu học, trung học cơ sở có học lực yếu kém và học sinh bỏ học giảm dần; toàn huyện có 31 trường đạt chuẩn quốc gia (chiếm 40,26%).

7.2. Quan tâm hơn công tác dạy nghề, nhất là lao động nông thôn, chú trọng kỹ năng trồng trọt, chăn nuôi và việc ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất để nâng cao năng suất, chất lượng nông sản; nâng dần hiệu quả hoạt động của Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp-Giáo dục thường xuyên, có chú ý phối hợp, liên kết với các trường trung cấp, cao đẳng nghề và doanh nghiệp mở rộng phạm vi, đối tượng và hình thức đào tạo nghề, gắn với tuyển dụng lao động; đồng thời khuyến khích người lao động tự học nghề để tìm việc..., góp phần nâng thêm tỷ lệ lao động qua đào tạo (ước đạt 65% vào năm 2020).

7.3. Về hoạt động khoa học, công nghệ, nhiều doanh nghiệp, hộ kinh doanh và người dân đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, nhất là các loại cây trồng mới, đầu tư máy móc, thiết bị, quy trình sản xuất...; có thêm một số mô hình sản xuất ứng dụng công nghệ cao ở Đa Mi, Thuận Hòa, Hồng Sơn, Hàm Phú, Phú Long, nên hiệu quả sản xuất và chất lượng sản phẩm được nâng lên. Có chú ý sửa chữa, nâng cấp công trình lịch sử, văn hóa[8], góp phần giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ; quan tâm đôn đốc thúc đẩy tiến độ biên soạn lịch sử truyền thống, nhất là lịch sử đảng bộ xã, thị trấn đi đôi với duy trì việc tổ chức giảng dạy lịch sử địa phương trong hệ thống trường học và Trung tâm chính trị huyện. Tiếp tục đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động quản lý nhà nước, đã sử dụng ổn định hệ thống truyền hình trực tuyến giữa huyện với cấp trên, áp dụng khá phổ biến chữ ký số và việc gởi, nhận văn bản, tài liệu qua mạng internet..., góp phần đổi mới phong cách, lề lối, hiệu quả, chất lượng công việc và cải thiện chỉ số xếp hạng ứng dụng công nghệ thông tin (vị trí 2/10 huyện, thị xã, thành phố trong tỉnh hiện nay, tăng 3 bậc so năm 2015), đồng thời tạo cơ sở nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh và chỉ số cải cách hành chính của huyện.

7.4. Chú trọng phát triển y tế, quan tâm chăm sóc sức khỏe nhân dân. Tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị và đội ngũ cán bộ y tế[9]; công tác xã hội hóa trên lĩnh vực y tế đạt nhiều kết quả[10], hầu hết cơ sở hành nghề y, dược tư nhân chấp hành tốt các quy định về khám, chữa bệnh; tiếp tục duy trì và khuyến khích mở rộng các hoạt động y học cổ truyền; đẩy mạnh thực hiện chủ trương bảo hiểm y tế toàn dân, uớc cuối năm 2020, tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế khoảng 90%. Tăng cường các biện pháp y tế dự phòng, không để xảy ra tử vong do dịch bệnh nguy hiểm; tỷ lệ mắc các bệnh sốt rét, sốt xuất huyết, bướu cổ, bệnh phong giảm nhiều so với những năm trước đây, phần lớn các chỉ số đánh giá sức khỏe của nhân dân đã được cải thiện đáng kể, tỷ lệ chết trẻ sơ sinh ở các cơ sở y tế giảm xuống còn dưới 0,2%, trẻ em từ 6-36 tháng được uống Vitamin A trên 98%, phụ nữ sinh được tiêm phòng uốn ván đủ 2 mũi trên 97%...Thực hiện khá tốt các chương trình y tế quốc gia; 100% xã, thị trấn đạt chuẩn theo Bộ tiêu chí quốc gia về y tế; huyện đạt chuẩn quốc gia về y tế; tỷ lệ trẻ em dưới 05 tuổi suy dinh dưỡng từ 9,63% (năm 2015) giảm xuống còn 7,63% và nâng tỷ lệ hộ sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh lên 99,6% hiện nay, trong đó hộ sử dụng nước máy 58,5%; vệ sinh an toàn thực phẩm cơ bản được bảo đảm, không để xảy ra vụ, việc nghiêm trọng.  

7.5. Tiếp tục duy trì và nâng dần chất lượng các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao. Mạng lưới thiết chế văn hoá cơ sở được quan tâm đầu tư xây dựng, hầu hết các xã, thị trấn và thôn, khu phố đều có nhà văn hóa, hoàn thành đầu tư nâng cấp trạm truyền thanh cơ sở và đài truyền thanh huyện; hiện nay, 100% xã, thị trấn được phủ sóng phát thanh và truyền hình. Hoạt động văn hóa, văn nghệ phong phú và đa dạng. Tập trung triển khai cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”, nâng chất lượng phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”; hàng năm, có trên 90% hộ gia đình và hơn 90% cơ quan, đơn vị đạt “chuẩn văn hóa”, duy trì số lượng, nâng dần chuẩn “thôn, khu phố văn hóa”; 02 thị trấn giữ chuẩn “đô thị văn minh”.

Cơ sở vật chất, trang thiết bị cho hoạt động thể dục, thể thao từng bước được đầu tư đi đôi với khuyến khích xã hội hóa[11]; các hoạt động, phong trào trên lĩnh vực này được duy trì và mở rộng, toàn huyện có 40 đội bóng đá nam 11 người, 60 đội bóng đá 05 người, 30 đội bóng chuyền, 06 câu lạc bộ võ thuật, 05 câu lạc bộ cầu lông; tỷ lệ dân số tham gia luyện tập thể dục, thể thao thường xuyên trên 31%. 

7.6. Tiếp tục thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội. Quan tâm chăm lo đối tượng chính sách và bảo trợ xã hội; đẩy mạnh hoạt động đền ơn đáp nghĩa, hỗ trợ người nghèo; bằng nhiều biện pháp đã tích cực giải quyết việc làm cho người lao động, bình quân hàng năm trên 3.200 lao động, vượt chỉ tiêu (2.500-3.000 lao động); giảm tỷ lệ hộ nghèo (theo chuẩn tiếp cận đa chiều) bình quân hàng năm đạt kế hoạch (1,2%), ước còn 2,81% vào cuối năm 2020, hoàn thành việc xóa hộ chính sách nghèo và cận nghèo. Đời sống nhân dân ổn định, một bộ phận có cải thiện; dự báo đến cuối năm 2020, thu nhập bình quân đầu người đạt mức 45,6 triệu đồng, gấp hơn 1,4 lần năm 2015, còn chỉ tiêu GRDP bình quân đầu người cao hơn kế hoạch đề ra (53,5/53 triệu đồng).

8. Công tác quốc phòng, quân sự địa phương được bảo đảm, an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân tiếp tục được củng cố. Công tác tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng-an ninh tiếp tục được đẩy mạnh[12], trong đó có thêm một số hình thức mới mang lại hiệu quả, nhất là mô hình “Tòa tuyên án”, góp phần nâng cao ý thức cảnh giác cách mạng, hiểu biết pháp luật cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Tiếp tục duy trì nề nếp công tác trực sẵn sàng chiến đấu, có chú ý theo dõi, nắm bắt và xử lý tình hình, không để bị động, bất ngờ và phát sinh phức tạp. Xây dựng lực lượng dân quân, tự vệ bảo đảm 1,5-2% so dân số và thường xuyên củng cố, xây dựng lực lượng dự bị động viên, cơ bản đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới; giao quân hàng năm đạt chỉ tiêu Tỉnh giao, bảo đảm chất lượng, thực hiện tốt việc cử đảng viên nhập ngũ (25 đồng chí); tổ chức tốt diễn tập chiến đấu phòng thủ cho 17/17 xã, thị trấn và diễn tập khu vực phòng thủ huyện (năm 2017), tích cực tham gia diễn tập chiến thuật phòng ngự bờ biển có bắn đạn thật cùng fBB302/Quân khu 7 (năm 2018); công tác huấn luyện đạt yêu cầu đề ra; khu vực phòng thủ huyện được xây dựng, củng cố ngày càng vững chắc.

Hoàn thành việc bố trí lực lượng công an chính quy ở 17/17 xã, thi trấn theo quy định; xây dựng và triển khai phương án A2 theo chỉ đạo, hướng dẫn của cấp trên. Quan tâm công tác phòng ngừa xã hội, chú trọng việc bảo đảm an ninh nông thôn đi đôi với kiên quyết đấu tranh trấn áp các hoạt động tội phạm, xử lý vi phạm; tiếp tục phát động phong trào “toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”, xây dựng và nhân rộng mô hình “tự quản, tự phòng” có hiệu quả, nhất là mô hình “phòng, chống lây lan ma túy”, “camera an ninh”...; chất lượng công tác hòa giải ở cơ sở có nâng lên, góp phần giải quyết kịp thời các mâu thuẫn, tranh chấp trong nhân dân ngay tại địa bàn dân cư, hạn chế những phát sinh phức tạp..., nên tình hình an ninh chính trị được giữ vững, trật tự an toàn xã hội có chuyển biến trên một số mặt.

9. Tập trung chấn chỉnh, nâng dần năng lực, hiệu lực và hiệu quả quản lý, điều hành của bộ máy nhà nước.

9.1. HĐND các cấp tiếp tục nâng chất lượng hoạt động theo hướng linh hoạt, hiệu quả; công tác chuẩn bị và tổ chức, điều hành các kỳ họp có tiến bộ; chú trọng các hoạt động thảo luận, chất vấn tại kỳ họp và tiếp tục cải tiến hoạt động giám sát, nội dung có trọng tâm hơn, tập trung vào các vấn đề bức xúc mà cử tri, nhân dân và dư luận xã hội quan tâm; hoạt động tiếp xúc cử tri, đôn đốc giải quyết các kiến nghị của cử tri được quan tâm hơn trước. Nhờ vậy, chất lượng các mặt hoạt động của HĐND huyện và HĐND các xã, thị trấn ngày càng nâng lên, từng bước tạo được niềm tin của cử tri và nhân dân huyện nhà.

9.2. Công tác cải cách hành chính tiếp tục được triển khai và đạt thêm kết quả mới. Thường xuyên rà soát, xây dựng và ban hành quy định về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các cơ quan chuyên môn, đơn vị thuộc UBND huyện; chỉ đạo 17 xã, thị trấn rà soát, bổ sung, xây dựng quy chế làm việc, quy chế phối hợp. Quan tâm xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức[13]; thực hiện việc rà soát, sắp xếp, bố trí, tuyển dụng mới cán bộ, công chức, viên chức cơ bản đúng theo quy định. Tổ chức tốt bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND các cấp và trưởng, phó thôn, khu phố. Từng bước sắp xếp tổ chức, tinh giản biên chế theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 (khóa XI)[14]

- Tiếp tục đầu tư nhà làm việc, văn phòng tiếp nhận và trả kết quả, trang thiết bị, ứng dụng công nghệ thông tin từ huyện đến xã, thị trấn; thường xuyên kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ và công tác cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa”“một cửa liên thông”, góp phần nâng cao hiệu quả công tác này; kết quả xếp loại chỉ số cải cách hành chính của các xã, thị trấn và của huyện có nhiều tiến bộ, trong đó 13 xã đạt loại tốt (tăng thêm 06) và 04 xã xếp loại khá (năm 2016 có 06 xã trung bình), xếp hạng chỉ số cải cách hành chính đối với huyện từ vị trí 9 lên vị trí 4/10 huyện, thị, thành phố trong tỉnh.

- Công tác tuyên truyền pháp luật, trợ giúp pháp lý, hòa giải ở cơ sở tiếp tục được quan tâm triển khai; chú ý kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, theo dõi thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính. Duy trì nề nếp chế độ tiếp dân và giải quyết đơn, thư của công dân[15], chú ý tổ chức đối thoại với dân, qua đó giải quyết dứt điểm một số vụ, việc phức tạp, kéo dài. Tăng cường công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, chú trọng các biện pháp phòng ngừa.

          9.3. Chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp ngày càng được nâng lên, hoàn thành nhiệm vụ được giao; công tác điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đảm bảo chặt chẽ, đúng pháp luật, hạn chế án huỷ, sửa và tình trạng sai nghiêm trọng; phối hợp tổ chức 26 phiên tòa rút kinh nghiệm theo tinh thần cải cách tư pháp. Cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện phục vụ công tác được quan tâm đầu tư; tổ chức bộ máy cơ quan tư pháp, đội ngũ cán bộ có chức danh tư pháp tiếp tục được củng cố, kiện toàn, cơ bản đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

          10. Tiếp tục đổi mới, nâng dần chất lượng công tác vận động quần chúng. Tập trung chỉ đạo đẩy mạnh đi đôi với nâng hiệu quả phong trào thi đua “dân vận khéo”; chú trọng hơn công tác dân vận chính quyền, nâng cao trách nhiệm, ý thức phục vụ nhân dân của cán bộ, công chức, chăm lo giải quyết tốt hơn nhu cầu chính đáng và những vấn đề bức xúc của dân.

          - Các tổ chức đoàn thể tiếp tục được xây dựng, củng cố; phát triển mới gần 37 ngàn quần chúng vào tổ chức, nâng lên hiện nay hơn 83 ngàn đoàn viên, hội viên; xây dựng cốt cán chính trị cơ bản bảo đảm theo định hướng của Tỉnh, chiếm 3,7% đoàn viên, hội viên. Nội dung, phương thức hoạt động của mặt trận, đoàn thể, hội quần chúng ngày càng đổi mới, hướng vào nhu cầu, lợi ích thiết thực của đoàn viên, hội viên và nhân dân, gắn kết với nhiệm vụ chính trị của địa phương và các phong trào thi đua, góp phần thiết thực chăm lo phát triển sản xuất và đời sống nhân dân; hoạt động giám sát đi dần vào nề nếp, chất lượng nâng lên, từng bước đưa công tác phản biện xã hội vào thực tiễn hoạt động của Mặt trận, đoàn thể huyện[16], vai trò tham gia xây dựng đảng, chính quyền của các tổ chức chính trị-xã hội dần được phát huy, khối đại đoàn kết toàn dân không ngừng được củng cố.

          - Quan tâm thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân, huy động nguồn lực trong dân cơ bản đúng quy định để thực hiện có kết quả các nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội; hoạt động thanh tra nhân dân đạt hiệu quả bước đầu, chú ý triển khai thực hiện cơ chế giám sát đầu tư cộng đồng. Tiếp tục thực hiện tốt chính sách tín ngưỡng, tôn giáo; tạo điều kiện thuận lợi để chức sắc, tín đồ và tôn giáo hoạt động, sinh hoạt theo quy định của pháp luật. 

          11. Tăng cường công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) và triển khai khá nghiêm túc Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII), góp phần ngăn chặn, đẩy lùi các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.

          11.1. Có chú ý đổi mới nội dung, phương pháp công tác tư tưởng. Cố gắng hơn trong công tác nắm bắt, định hướng tư tưởng và dư luận xã hội[17], kịp thời phản ánh và đề nghị các cơ quan quản lý nhà nước xử lý, giải quyết, góp phần củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân; tăng cường các biện pháp đấu tranh với các luận điệu tuyên truyền xuyên tạc, chống đối, thông tin xấu độc trên mạng xã hội. Quán triệt, tuyên truyền chỉ thị, nghị quyết của Đảng khá nghiêm túc, kịp thời đi đôi với cải tiến nâng chất lượng công tác này, tỷ lệ đảng viên được quán triệt bình quân 96% trở lên, đồng thời chỉ đạo viết thu hoạch, xây dựng kế hoạch hành động sau học tập, góp phần nâng nhận thức của cán bộ, đảng viên và bảo đảm việc cụ thể hóa của cấp ủy cơ bản phù hợp với thực tiễn; tiếp tục đổi mới, nâng chất lượng giáo dục chính trị; tổ chức tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ cơ sở thiết thực hơn[18].

          11.2. Quán triệt, triển khai thực hiện nghiêm túc Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị (khóa XII) và các chuyên đề học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh hàng năm. Hướng dẫn, đôn đốc việc đăng ký nội dung cam kết tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu của cán bộ, đảng viên đi đôi với lựa chọn chủ đề và tổ chức sinh hoạt chuyên đề tại chi bộ để thảo luận và đề ra biện pháp khắc phục hạn chế, thiếu sót. Phát động thi đua học tập và làm theo gương Bác và tổ chức tốt Lễ tuyên dương gương điển hình tiên tiến theo từng giai đoạn, qua đó nhân rộng điển hình về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, thu hút cán bộ, đảng viên và nhân dân tham gia, tạo thêm kết quả quan trọng trên một số lĩnh vực; thường xuyên chỉ đạo các cấp, các ngành tập trung xử lý, giải quyết các vấn đề bức xúc, nổi cộm đã chọn, được nội bộ và nhân dân đồng tình cao. Nhờ vậy, đã góp phần nâng trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, người đứng đầu, sâu sát hơn với công việc, chú ý giải quyết nhu cầu thiết thực, kiến nghị chính đáng của dân.

11.3. Tập trung chấn chỉnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên theo các chỉ thị, nghị quyết của cấp trên[19]. Sắp xếp tổ chức đảng theo hướng thu gọn đầu mối, phù hợp với chức năng và tình hình thực tế[20]; xây dựng và kịp thời rà soát, bổ sung quy chế làm việc, quy chế phối hợp theo đúng quy định và sát với thực tiễn; tăng cường các biện pháp cải tiến, nâng chất lượng sinh hoạt chi bộ, phân công Ủy viên Thường vụ Huyện ủy và lãnh đạo các cơ quan tham mưu, giúp việc Huyện ủy phụ trách từng chi bộ và trực tiếp dự sinh hoạt định kỳ để chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn; tiếp tục cải tiến phương pháp lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của cấp ủy theo hướng nắm chắc công việc, bám sát cơ sở; đề cao vai trò của người đứng đầu, phát huy trách nhiệm của cấp uỷ viên; thực hiện tốt công tác quản lý, phân công đảng viên; khắc phục dần biểu hiện hình thức, chạy theo thành tích trong phân loại cơ sở đảng và đảng viên[21], góp phần đưa hoạt động của tổ chức cơ sở đảng đi dần vào nề nếp theo quy chế, nội dung sinh hoạt sát hơn với thực tiễn, phát huy được vai trò lãnh đạo nhiệm vụ chính trị. Tiếp tục đẩy mạnh công tác phát triển đảng viên gắn với rà roát, sàng lọc, đưa những đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng theo tinh thần Chỉ thị 28 của Ban Bí thư (khóa XII), ước kết nạp cả nhiệm kỳ 986 đảng viên, bình quân hàng năm 197 đồng chí, vượt 19,4% chỉ tiêu đề ra (165 đồng chí).

- Tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ tiếp tục được củng cố, kiện toàn. Ngoài sắp xếp các đơn vị sự nghiệp công lập đã đề cập, còn giải thể Ban Chỉ đạo Vùng cao huyện, nhất thể hóa một số chức danh (Trưởng Ban Tuyên giáo Huyện ủy kiêm Giám đốc Trung tâm bồi dưỡng chính trị, Trưởng Ban Dân vận Huyện ủy kiêm Chủ tịch Mặt trận huyện) và giảm số lượng cấp phó ở một số ban, ngành, đoàn thể huyện. Tiếp tục rà soát, xây dựng và thực hiện nghiêm túc các quy định về công tác cán bộ; ban hành quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ công tác của các cơ quan tham mưu, giúp việc Huyện ủy, Mặt trận, đoàn thể chính trị-xã hội huyện và chỉ đạo các tổ chức trong hệ thống chính trị rà soát điều chỉnh, bổ sung chức năng, nhiệm vụ, quy chế làm việc để thực hiện. Quan tâm công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng[22], điều động, luân chuyển cán bộ; thường xuyên rà soát, đánh giá chất lượng đi đôi với sắp xếp, bố trí cán bộ chủ chốt cấp huyện và cơ sở cơ bản đủ số lượng[23]. Tiếp tục đổi mới công tác đánh giá cán bộ theo hướng thực chất hơn. Chỉ đạo thực hiện tốt việc định kỳ tổ chức lấy phiếu tín nhiệm các chức danh chủ chốt cấp ủy và những người do HĐND huyện và HĐND xã, thị trấn bầu. Triển khai thực hiện đầy đủ, kịp thời các chế độ, chính sách đối với cán bộ. Công tác bảo vệ chính trị nội bộ có tiến bộ, hầu hết trường hợp có vấn đề cần xem xét về lịch sử chính trị đều được thẩm tra, xác minh, kết luận theo quy định, phục vụ kịp thời cho công tác cán bộ và kết nạp đảng viên.

          - Công tác kiểm tra, giám sát của các cấp ủy, tổ chức đảng được tăng cường, chú ý kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm và giám sát thường xuyên[24], quan tâm hơn việc khắc phục sau kiểm tra, giám sát; đã có sự phối hợp giữa kiểm tra, giám sát của Đảng với thanh tra Nhà nước, giám sát của HĐND và Mặt trận, đoàn thể chính trị-xã hội, nên đã hạn chế dần sự trùng lắp về nội dung, đối tượng. Qua kiểm tra, giám sát đã phát hiện và xử lý kịp thời, kiên quyết các trường hợp vi phạm, đã thi hành kỷ luật 80 đảng viên (Ban Thường vụ Huyện ủy 04, Ủy ban Kiểm tra Huyện ủy 25, đảng ủy cơ sở 32 và chi bộ trực thuộc cơ sở 19), trong đó khai trừ 07, cách chức 05, cảnh cáo 15 và khiển trách 53 trường hợp, đã có tác dụng giáo dục, ngăn ngừa, hạn chế tiêu cực, vi phạm xảy ra, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng và ý thức tu dưỡng, rèn luyện của cán bộ, đảng viên.

          II. NHỮNG KHUYẾT ĐIỂM, HẠN CHẾ:

            1. Còn số ít chỉ tiêu chủ yếu chưa đạt kế hoạch hoặc mức độ hoàn thành chưa cao, kết quả triển khai thực hiện nhiệm vụ trọng tâm và khâu đột phá đã xác định có mặt còn hạn chế. Chưa tập trung đúng mức cho công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, nhất là cơ sở; một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Thu hút đầu tư còn khó khăn; hệ thống thủy lợi nội đồng và các công trình phục vụ dân sinh, kinh tế-xã hội vẫn còn thiếu đồng bộ. Công tác đào tạo nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu. Huy động  nguồn lực và sự sáng tạo của nhân dân trong tham gia xây dựng nông thôn mới chưa mạnh. Một số vấn đề xã hội bức xúc chậm được giải quyết, chưa thực sự quan tâm xây dựng môi trường văn hóa, xây dựng con người. Trật tự an toàn xã hội trong từng lúc, từng nơi còn phức tạp.

          2. Sản xuất tăng trưởng chậm. Thực hiện Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp còn lúng túng, kết quả chưa rõ; xây dựng mô hình cánh đồng lớn, vùng sản xuất ứng dụng công nghệ cao (1.300 ha thanh long, 110 ha lúa giống và 80 ha rau sạch) và đề án phát triển cao su (2.000 ha) chưa thực hiện được; chuyển đổi cây trồng trên đất lúa, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật, liên kết sản xuất-tiêu thụ nông sản chưa thật hiệu quả. Năng suất, hiệu quả sản xuất chậm nâng lên; do nắng hạn phải cắt giảm diện tích gieo trồng lúa vụ Đông-xuân 2016-2017 và 2019-2020, nên sản lượng lương thực không đạt kế hoạch. Việc huy động sức dân để phát dọn, bảo đảm dòng chảy kênh, mương, sông, suối đã khơi thông chưa được chú trọng. Phát triển chăn nuôi còn khó khăn; kiểm soát dịch bệnh, vệ sinh môi trường chưa tốt.

          Sản xuất công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp quy mô nhỏ, chủ yếu thâm dụng lao động, công nghiệp hóa-tự động hóa chưa cao, năng suất thấp, chưa trở thành đòn bẩy cho các lĩnh vực khác; hoạt động thương mại, dịch vụ phát triển chưa mạnh, việc hoàn thiện chợ Phú Long để kéo dài đã ảnh hưởng đến việc phát huy hiệu quả. Môi trường đầu tư, kinh doanh chưa được cải thiện rõ nét đã làm hạn chế đến kết quả thu hút đầu tư, chưa có dự án đầu tư quy mô lớn, nhằm góp phần khai thác, phát huy đúng mức tiềm năng, lợi thế của địa phương[25], tạo ra động lực thúc đẩy sự phát triển chung; số lượng doanh nghiệp, hộ kinh doanh còn ít, chủ yếu quy mô nhỏ và siêu nhỏ, kinh tế tập thể hiệu quả thấp; tiến độ thực hiện các dự án đầu tư còn chậm, nhất là tại các cụm công nghiệp Phú Long, Hàm Đức, Ma Lâm và khu dân cư, tiểu thủ công nghiệp-thương mại-dịch vụ Hàm Thắng-Hàm Liêm, do vướng đất rừng nên dự án thủy điện Đan Sách và Thác Ba không thực hiện được.

          3. Xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh có mặt chưa đáp ứng yêu cầu. Tiến độ hoàn thiện các tiêu chí rớt chuẩn ở các xã đã được công nhận trước đây còn chậm; chưa tập trung đúng mức việc xây dựng xã “nông thôn mới nâng cao” Hàm Trí; do thực hiện tiêu chí giai đoạn 2016-2020, nên không đạt chỉ tiêu về số xã đạt chuẩn nông thôn mới (10/12 xã) và Huyện đạt chuẩn nông thôn mới. 

          - Đầu tư phát triển sản xuất và phục vụ đời sống đồng bào dân tộc thiểu số chưa mạnh, một số dự án kéo dài; hiệu quả đất 04 rất thấp; kinh tế-xã hội nhìn chung phát triển chậm và chưa đồng bộ, thiếu vững chắc; tỷ lệ hộ nghèo còn ở mức cao; khoảng cách so với các vùng khác chậm được thu hẹp.

          - Quy hoạch chung thị trấn Ma Lâm và quy hoạch phân khu chức năng thị trấn Phú Long chậm; quy hoạch đô thị Hàm Đức không triển khai được, do vướng quy định của trên về không chia tách ranh giới hành chính. Bộ mặt thị trấn Phú Long chưa được cải thiện nhiều, thị trấn Ma Lâm tuy có chuyển biến, nhưng chưa xứng tầm là trung tâm huyện lỵ.

          4. Cơ sở hạ tầng nhìn chung vẫn còn thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển, nhất là các công trình thủy lợi, nước sinh hoạt ở những vùng khó khăn; nhiều cầu dân sinh và cầu trên các tuyến giao thông nông thôn, giao thông nội đồng chưa được kiên cố hóa; một số tuyến giao thông kết nối quan trọng chưa được đầu tư, đặc biệt là đường Phú Long-Thiện Nghiệp, ĐT711; chưa thường xuyên duy tu, bảo dưỡng nhằm phát huy tối đa hiệu quả một số kết cấu hạ tầng đã được đầu tư; tiến độ một số công trình còn chậm, chất lượng có mặt chưa bảo đảm, cơ chế giám sát đầu tư cộng đồng chưa được chú trọng đúng mức.

          5. Quản lý, điều hành ngân sách còn một số vấn đề cần lưu ý. Thu ngân sách tuy đạt kết quả cao, tốc độ tăng thu vượt chỉ tiêu, nhưng nhìn chung cơ cấu nguồn thu thiếu vững chắc, thu tiền sử dụng đất chiếm tỷ trọng cao. Quản lý, sử dụng các khoản huy động, đóng góp theo quy chế dân chủ ở một số nơi chưa bảo đảm theo quy định; nhiều cơ quan, đơn vị chưa thực hiện tốt quy chế dân chủ, công khai, minh bạch trong công tác quản lý thu-chi, xây dựng và thực hiện quy chế chi tiêu nội bộ; tình trạng thu các khoản ngoài học phí không đúng quy định vẫn còn xảy ra ở một số trường học, nhưng chậm được chấn chỉnh, khắc phục.

          6. Về tồn tại, hạn chế trên lĩnh vực văn hóa-xã hội, chất lượng giáo dục toàn diện nâng lên chậm, nhất là giáo dục kỹ năng sống, giáo dục học sinh dân tộc thiểu số; cơ sở vật chất trường học nhìn chung chưa đáp ứng yêu cầu phát triển và đổi mới giáo dục; tình trạng học sinh bỏ học phải huy động ra lớp phổ cập còn nhiều; việc phân luồng, định hướng học nghề cho học sinh trung học còn khó khăn, chưa gắn đào tạo văn hóa, dạy nghề với nhu cầu việc làm, chất lượng nguồn nhân lực còn thấp, tình trạng sinh viên tốt nghiệp chưa tìm được việc làm còn nhiều. Ứng dụng khoa học, công nghệ trong sản xuất và đời sống còn hạn chế.

          - Tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế thiếu ổn định; cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện và đội ngũ cán bộ y tế ở một số nơi, nhất là cơ sở chưa đáp ứng yêu cầu, chất lượng khám chữa bệnh nâng lên chậm, chưa kiểm soát tốt dịch bệnh, nhất là sốt xuất huyết; công tác quản lý, phát huy hiệu quả các hoạt động y tế ngoài công lập chưa được quan tâm đúng mức; tỷ lệ tăng dân số và tỷ lệ người dân được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh, nước sạch không đạt kế hoạch đề ra.

          - Phong trào “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” trên một số mặt chưa thực chất, chậm nhân rộng một số mô hình “sáng, xanh, sạch, đẹp, an toàn” hiệu quả; hoạt động văn hóa, văn nghệ nhìn chung chưa đáp ứng yêu cầu; phong trào luyện tập thể dục, thể thao phát triển chưa mạnh, vẫn chưa phát hiện, luyện tập, bồi dưỡng vận động viên tham gia thi đấu thể thao thành tích cao.

          - Thu nhập bình quân đầu người còn thấp so với mục tiêu phải hướng đến, đời sống nhân dân chậm được nâng lên, một bộ phận người dân chuyên sản xuất nông nghiệp và đồng bào dân tộc thiểu số còn khó khăn.

          7. Quốc phòng, an ninh còn có mặt thiếu sót. Công tác quản lý đối tượng, theo dõi nắm tình hình có lúc, có nơi chưa bảo đảm, phát hiện và xử lý tình huống xảy ra trong một số trường hợp thiếu kịp thời; chất lượng lực lượng vũ trang tuy có nâng lên, nhưng chưa đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới.

          An ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội tuy có chuyển biến, nhưng có mặt chưa căn bản, an ninh nông thôn còn tiềm ẩn một số yếu tố mất ổn định; công tác phòng ngừa và đấu tranh trấn áp tội phạm, xử lý vi phạm có trường hợp hiệu quả còn thấp. Phạm pháp hình sự trong từng lúc, từng nơi còn phức tạp; tai nạn giao thông tuy giảm, nhưng còn ở mức cao; tình trạng sử dụng ma túy có biểu hiện lan rộng..., gây tâm lý lo lắng trong nội bộ và nhân dân.

          7. Hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành của các cấp chính quyền trên một số mặt chưa bảo đảm. Chất lượng hoạt động của HĐND các cấp tuy có nâng lên, nhưng chưa đáp ứng yêu cầu, nhất là hoạt động thảo luận, chất vấn tại các kỳ họp, giám sát và tiếp xúc cử tri; chưa quan tâm theo dõi, đôn đốc khắc phục theo các kiến nghị sau giám sát; một số đại biểu dân cử thiếu tích cực trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo quy định, chưa đáp ứng sự kỳ vọng của cử tri và nhân dân. 

          - Cải cách thủ tục hành chính có mặt còn bất cập, hạ tầng công nghệ thông tin chưa đáp ứng yêu cầu; thực hiện cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông” còn thiếu đồng bộ, triển khai dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4 chưa hiệu quả; tỷ lệ hồ sơ giải quyết trễ hẹn trên lĩnh vực đất đai còn ở mức cao. Sự phối hợp giữa các ngành với nhau và với xã, thị trấn thiếu đồng bộ, hiệu quả chưa cao; năng lực công tác, tinh thần trách nhiệm, ý thức chấp hành của một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức, kể cả người đứng đầu một số ban, ngành huyện và xã, thị trấn chưa được đề cao đúng mức, cá biệt có trường hợp vi phạm phải xử lý kỷ luật.

          - Công tác quản lý đất đai, tài nguyên, khoáng sản, tài sản công và bảo vệ môi trường chưa chặt chẽ, một số nơi có biểu hiện buông lỏng; quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất còn một số vấn đề chưa bảo đảm quy định và phù hợp với thực tế; xử lý đối tượng vi phạm trên lĩnh vực đất đai, khoáng sản và trách nhiệm của các cơ quan chức năng, cán bộ, công chức có liên quan thiếu nghiêm túc, nên tình hình vi phạm  tiếp tục xảy ra ở một số nơi; còn lúng túng và thiếu quyết tâm trong quản lý, phát huy hiệu quả quỹ đất công ích, đất 5%, trụ sở, trường học...; phong trào trồng cây nhân dân phát triển chưa mạnh; một số vấn đề bức xúc về vệ sinh môi trường chưa được xử lý căn bản, nhất là ở các khu dân cư, nơi công cộng, dọc các tuyến giao thông nội huyện, trại chăn nuôi heo tập trung, cơ sở sản xuất, kinh doanh; công tác quản lý đô thị ở 02 thị trấn còn bất cập so với yêu cầu, nhất là về trật tự xây dựng, xử lý nước thải, rác thải. Xử lý vi phạm hành chính trong nhiều trường hợp còn sai sót, thi hành quyết định xử phạt chưa nghiêm, nhất là biện pháp khắc phục hậu quả do hành vi vi phạm gây ra theo quy định của pháp luật.

          - Cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện phục vụ công tác của các cơ quan tư pháp nhìn chung vẫn còn khó khăn. Tiến độ điều tra, giải quyết án và xử lý tin báo, tố giác tội phạm trong một số trường hợp còn chậm. Tỷ lệ án bị hủy, sửa tuy thấp hơn mức quy định của ngành, nhưng còn lỗi chủ quan của thẩm phán, cá biệt có trường hợp sai tội danh, phải giám đốc thẩm, đã tạo dư luận không tốt. Công tác thi hành án dân sự chưa có chuyển biến rõ nét, án tồn đọng còn nhiều.

8. Công tác xây dựng đảng, công tác vận động quần chúng còn một số thiếu sót. Công tác tư tưởng chưa theo kịp với yêu cầu thực tiễn đặt ra, chưa có giải pháp khắc phục tâm lý không muốn vào Đảng, tổ chức đoàn thể, kể cả trong một số công chức, viên chức; chất lượng công tác quán triệt, học tập, tuyên truyền, phổ biến chỉ thị, nghị quyết và ban hành văn bản để chỉ đạo thực hiện nâng lên chậm; đội ngũ cộng tác viên dư luận xã hội chưa đáp ứng yêu cầu, nắm bắt và xử lý những vấn đề bức xúc, nổi cộm thiếu chủ động; kết quả đấu tranh với các luận điệu xuyên tạc, thù địch, thông tin xấu độc trên mạng xã hội còn hạn chế.

- Khắc phục một số hạn chế, tồn tại về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống đã chỉ ra theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) còn chậm. Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí có mặt chưa đạt yêu cầu, nhất là kiểm soát việc kê khai tài sản, thu nhập và định kỳ chuyển đổi vị trí công tác một số chức danh cán bộ, công chức theo quy định; có dư luận về tình trạng “tham nhũng vặt” ở một số lĩnh vực trong khu vực công, nhưng chưa đủ cơ sở để xử lý ngăn chặn, làm xói mòn niềm tin trong nhân dân. Phong trào thi đua học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh chưa đi vào nề nếp; một số nơi gặp khó khăn, lúng túng trong lựa chọn chủ đề và tổ chức sinh hoạt chuyên đề, xác định nội dung cam kết nêu gương còn chung chung, thiếu cụ thể, nên khó theo dõi, đánh giá; chưa chú ý đúng mức việc chỉ đạo xây dựng, bồi dưỡng gương điển hình tiêu biểu. Tinh thần trách nhiệm, thái độ phục vụ nhân dân, ý thức chấp hành, tính trung thực trong công tác, trách nhiệm giải trình...của một số cán bộ, công chức, kể cả người đứng đầu thiếu nghiêm túc; có trường hợp chưa tự giác tu dưỡng, rèn luyện, làm ảnh hưởng đến uy tín của tổ chức và cá nhân.

- Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức đảng nâng lên chậm, còn một số tổ chức có mặt khó khăn, hạn chế, cá biệt có nơi yếu kém; chất lượng sinh hoạt chi bộ, nhất là ở một số cơ quan, đơn vị huyện và thôn, khu phố còn thấp; công tác phân công, quản lý đảng viên ở một số nơi thực hiện chưa tốt, nên chậm phát hiện, chấn chỉnh, xử lý sai phạm; công tác tạo nguồn và phát triển đảng viên ở địa bàn dân cư còn khó khăn, chất lượng kết nạp đảng viên trong một số trường hợp chưa bảo đảm, tình trạng bỏ sinh hoạt, xin ra khỏi Đảng còn nhiều, nhất là số đảng viên xuất ngũ trở về địa phương. Trong công tác bảo vệ nội bộ Đảng, mới tập trung về lịch sử chính trị, mà chưa chú trọng đúng mức đến chính trị hiện nay, khâu đầu vào và vấn đề sử dụng cán bộ, đảng viên có vấn đề về lịch sử chính trị, nhằm phát huy năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, theo đúng quan điểm của Đảng.

- Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý còn hẫng hụt; nhận xét, đánh giá cán bộ vẫn là khâu yếu; sắp xếp, bố trí cán bộ trong một số trường hợp còn chậm[26] và chưa bảo đảm[27] ; chưa quan tâm đúng mức công tác đào tạo cán bộ, nên còn một số lãnh đạo cơ quan, đơn vị huyện và cán bộ chủ chốt xã, thị trấn không bảo đảm tiêu chuẩn, nhất là về trình độ chính trị và chuyên môn, nghiệp vụ.

- Chưa khắc phục triệt để tình trạng trùng lắp nội dung, đối tượng kiểm tra, giám sát; tự kiểm tra nội bộ về phòng, chống tham nhũng ở nhiều cơ quan, đơn vị, tổ chức còn lúng túng và thiếu quyết tâm; tiến độ giải quyết, xử lý và kết luận một số vụ, việc còn chậm và chưa bảo đảm yêu cầu, đáng chú ý còn một số trường hợp để hết thời hiệu nên không thể xử lý về chính quyền, có vụ, việc xử lý thiếu chặt chẽ, chưa bảo đảm quy trình, dẫn đến khiếu nại, tố cáo kéo dài...đã làm hạn chế đến việc chấn chỉnh, khắc phục những khuyết điểm, sai phạm xảy ra, ảnh hưởng đến tính đồng bộ và sự nghiêm minh của kỷ luật Đảng và chính quyền, giảm tác dụng giáo dục, phòng ngừa chung.

- Đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của mặt trận, đoàn thể, hội quần chúng chưa đáp ứng yêu cầu, khắc phục chưa triệt để biểu hiện “hành chính hóa”, “công chức hóa”; công tác tập hợp, phát triển đoàn viên, hội viên ở địa bàn dân cư còn khó khăn; chất lượng một số chi, tổ hội chưa bảo đảm; hoạt động và một số phong trào chưa thực sự bám sát cơ sở và nhu cầu của đoàn viên, hội viên; chất lượng công tác giám sát của Mặt trận, đoàn thể chưa bảo đảm, hoạt động phản biện xã hội còn khó khăn, vai trò tham gia xây dựng Đảng, chính quyền chưa rõ. Triển khai phong trào thi đua “dân vận khéo” chưa mạnh, có nơi còn hình thức, công tác dân vận chính quyền chưa được chú trọng đúng mức, kết quả triển khai thực hiện “năm dân vận chính quyền” hàng năm còn hạn chế; phát huy quyền làm chủ của nhân dân có lúc, có nơi chưa bảo đảm, một số đơn vị, tổ chức thiếu quan tâm thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, nhất là cơ quan xã, thị trấn và trường học.

 III. ĐÁNH GIÁ CHUNG:

1. Kết quả đạt được.

Năm năm qua, trong điều kiện còn nhiều khó khăn, nhưng các cấp, các ngành và nhân dân huyện nhà đã nỗ lực, phấn đấu thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XI đạt nhiều kết quả quan trọng, tạo tiền đề phát triển cho những năm tiếp theo. Sản xuất nông nghiệp cơ bản ổn định, có mặt chuyển biến tích cực; giá trị sản xuất tăng khá. Công nghiệp, thương mại, dịch vụ phát triển đa dạng và phong phú theo yêu cầu của thị trường. Thu ngân sách hàng năm đều vượt dự toán, tốc độ tăng thu đạt mức cao. Cơ sở hạ tầng tiếp tục được quan tâm đầu tư, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội. Tập trung xây dựng nông thôn mới đạt thêm một số kết quả; từng bước chỉnh trang đô thị, nhất là thị trấn Ma Lâm; bộ mặt nông thôn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số khởi sắc hơn. Chất lượng giáo dục, y tế, văn hóa được giữ vững, một số mặt có tiến bộ; thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội, đời sống nhân dân từng bước nâng lên, một bộ phận có cải thiện hơn trước. Quốc phòng được giữ vững, an ninh, trật tự cơ bản bảo đảm. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị và công tác vận động quần chúng được tập trung triển khai và đạt kết quả nhất định, tạo chuyển biến rõ nét trên một số mặt.

 Bên cạnh sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, giúp đỡ của Tỉnh, kết quả đạt được nêu trên là biểu hiện sinh động từ sự đồng thuận, hưởng ứng tích cực của nhân dân và sự nỗ lực, phấn đấu của cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên trong huyện; cùng với công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy và quản lý, điều hành của chính quyền các cấp có sự đổi mới, tập trung hơn vấn đề trọng tâm, trọng điểm, bức xúc, mặt trận, đoàn thể, hội quần chúng tiếp tục cải tiến nâng chất lượng hoạt động và các cấp, các ngành cố gắng quán triệt, triển khai chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, đã tạo sức mạnh tổng hợp trong thực hiện nhiệm vụ.

2. Khuyết điểm, hạn chế.

Đối chiếu với Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XI, mức độ hoàn thành một số chỉ tiêu chủ yếu chưa bảo đảm kế hoạch đề ra, thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm, khâu đột phá chưa đạt yêu cầu. Tái cơ cấu kinh tế, trọng tâm là cơ cấu lại sản xuất nông nghiệp hiệu quả chưa cao; sản xuất nông nghiệp phát triển chưa bền vững, vẫn còn manh mún, nhỏ lẻ, tích tụ ruộng đất chưa nhiều, ứng dụng công nghệ vào sản xuất còn quá ít. Phát triển công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ còn khó khăn, chưa tạo ra nền tảng thúc đẩy phát triển các lĩnh vực khác. Thu hút đầu tư còn nhiều vướng mắc, chưa có dự án lớn đầu tư trên địa bàn để làm động lực phát triển. Kết cấu hạ tầng nhìn chung vẫn chưa đáp ứng yêu cầu phát triển sản xuất và đời sống. Một số vấn đề xã hội bức xúc chậm được giải quyết; trật tự an toàn xã hội trên một số mặt chuyển biến chưa căn bản. Chất lượng tổ chức cơ sở Đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên nâng lên chậm; quản lý nhà nước trên một số lĩnh vực thiếu chặt chẽ, kỷ cương, kỷ luật có lúc, có nơi chưa bảo đảm. Đời sống một bộ phận nhân dân còn khó khăn, chưa có cải thiện nhiều.

Những khuyết điểm trên có yếu tố khách quan[28], nhưng chủ yếu là do các cấp, các ngành quán triệt, nhận thức chưa sâu kỹ và hạn chế về khả năng dự báo tình hình, cụ thể hóa chủ trương, chính sách của Đảng và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XI, tổ chức thực hiện thiếu quyết liệt, chưa tập trung đúng mức cho nhiệm vụ trọng tâm, khâu đột phá. Năng lực lãnh đạo của Huyện ủy, Ban Thường vụ Huyện ủy có mặt chưa theo kịp tình hình; tinh thần trách nhiệm, ý thức chấp hành của một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức, kể cả người đứng đầu chưa được đề cao đúng mức, nhưng xử lý chấn chỉnh thiếu kịp thời, kiên quyết.

IV. NHỮNG KINH NGHIỆM RÚT RA.

          1. Trên cơ sở nắm vững quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, cần thống nhất nhận thức về định hướng phát triển, nhất là kinh tế-xã hội, nhằm tạo sự nhất trí trong quá trình triển khai thực hiện.

          2. Năng lực lãnh đạo phải theo kịp với yêu cầu từ thực tiễn, khả năng dự báo phải cơ bản sát đúng với thực tế. Kế hoạch, chương trình đề ra phải thể hiện rõ “ý Đảng-lòng Dân”, bảo đảm lợi ích thiết thực, chính đáng của nhân dân, lấy sự hài lòng của người dân làm mục tiêu phấn đấu, tạo đồng thuận trong nhân dân.

          3. Chỉ đạo, điều hành phải quyết liệt, có trọng tâm, trọng điểm; giữ nghiêm kỷ luật hành chính, kỷ cương pháp luật; tăng cường đoàn kết thống nhất nội bộ, phát huy trí tuệ tập thể, đề cao vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước là cán bộ chủ chốt, người đứng đầu. Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và nhân dân trong thực hiện nhiệm vụ, nhất là việc khó, vấn đề phức tạp.

4. Coi trọng đúng mức việc huy động nguồn lực cho đầu tư phát triển. Tranh thủ kịp thời sự giúp đỡ và nguồn lực hỗ trợ của cấp trên là rất quan trọng; phát huy tối đa nội lực, nhất là nguồn lực trong dân và các thành phần kinh tế có ý nghĩa quyết định. Tuân thủ nghiêm quy định và phát huy dân chủ trong huy động, bảo đảm tính hợp lý trong phân bổ và hiệu quả trong quản lý, sử dụng nguồn lực.

Phần thứ hai:

PHƯƠNG HƯỚNG NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHIỆM KỲ 2020-2025

          Năm năm đến (2020-2025), phải tận dụng tốt cơ hội đi đôi với chủ động khắc phục thách thức từ xu hướng hội nhập quốc tế sâu rộng và tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Cùng với thuận lợi cơ bản, nhất là các chương trình, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước được ban hành; tiềm năng về lao động, đất đai, kết cấu hạ tầng đã được đầu tư sẽ phát huy tác dụng và một số công trình quan trọng tiếp tục được triển khai[29]..., sẽ tạo ra đòn bẩy cho phát triển; huyện ta cũng gặp nhiều khó khăn, cản trở, đáng chú ý là tốc độ đô hóa nhanh sẽ tạo nhiều áp lực trong công tác quản lý đất đai, bảo đảm trật tự an toàn xã hội, nhất là khu vực giáp ranh với thành phố Phan Thiết và ảnh hưởng tiêu cực từ biến đổi khí hậu sẽ tác động đến sản xuất và đời sống của nhân dân...

I. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỤC TIÊU TỔNG QUÁT:

Phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân, khơi dậy tinh thần khởi nghiệp, ý chí nỗ lực phấn đấu vươn lên trong cộng đồng; nâng cao năng lực lãnh đạo của các cấp ủy đảng và năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành của bộ máy nhà nước các cấp; huy động, phân bổ, quản lý, sử dụng hiệu quả nguồn lực đi đôi với khai thác, phát huy đúng mức tiềm năng, lợi thế ở địa phương, nhằm thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh và bền vững hơn; đồng thời tập trung giải quyết tốt các vấn đề xã hội, bảo đảm quốc phòng, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, không ngừng cải thiện đời sống nhân dân, tạo tiền đề phát triển trong giai đoạn tiếp theo, góp phần xây dựng huyện sớm đạt chuẩn nông thôn mới.

II. NHỮNG CHỈ TIÊU CHỦ YẾU: 

1. Tốc độ tăng trưởng ngành bình quân hàng năm: Nông-lâm nghiệp 5,21%; công nghiệp-xây dựng 9,21%; thương mại-dịch vụ 14,05%.

2. Thu nhập bình quân đầu người đến năm 2025 đạt trên 70 triệu đồng (khoảng 3.000 USD).

3. Thu ngân sách tăng bình quân hàng năm trên 10%.

4. Giá trị đầu tư xây dựng cơ bản 3.500 tỷ đồng trở lên (không tính cao tốc Bắc-Nam phía Đông).

5. Đến năm 2025, xử lý 100% chất thải y tế và 95% chất thải nguy hại; 100% hộ dân được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh, trong đó khoảng 80% là nước sạch theo chuẩn của Bộ Y tế.

6. Giảm tốc độ tăng dân số dưới mức 0,5% và tỷ lệ trẻ dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng còn 6,13%.

7. Đến năm 2025, phấn đấu có 60% số trường học (thuộc thẩm quyền quản lý của huyện) đạt chuẩn quốc gia; hàng năm, huy động trên 99% trẻ 5 tuổi vào mẫu giáo và trẻ 6 tuổi lớp 1. Nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt từ 75% trở lên vào năm 2025.

8. Giải quyết việc làm hàng năm trên 3.500 lao động; trong 05 năm, giảm   2/3 tổng số hộ nghèo.

9. Phấn đấu đến năm 2025, có 12 xã đạt chuẩn nông thôn mới (theo chuẩn giai đoạn 2016-2020), trong đó 02 xã “nông thôn mới nâng cao” và 02 xã “nông thôn mới kiểu mẫu”; 02 thị trấn tiếp tục giữ chuẩn “văn minh đô thị”.

          10. Hàng năm, phấn đấu có ít nhất 10% tổ chức cơ sở đảng đạt mức “hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ” và trên 50% “hoàn thành tốt nhiệm vụ”, không có tổ chức cơ sở đảng xếp loại “không hoàn thành nhiệm vụ”. Bình quân hàng năm kết nạp 100 đảng viên.

          III. NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM:

            1. Tập trung củng cố, nâng chất lượng hệ thống chính trị và đội ngũ cán bộ, đảng viên, đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới.

          2. Dồn sức xây dựng nông thôn mới ở các xã còn lại đi đôi với giữ chuẩn và nâng chất lượng các xã đã đạt chuẩn nông thôn mới, thị trấn đạt chuẩn “đô thị văn minh”, thu hẹp khoảng cách giữa vùng đồng bào dân tộc thiểu số với các vùng khác trong huyện. 

3. Đẩy mạnh tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng thực chất, hiệu quả đi đôi với thúc đẩy phát triển mạnh công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ, nhằm tạo động lực cho tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu ngành theo hướng tích cực.

4. Giải quyết tốt các vấn đề bức xúc về xã hội; quan tâm chăm lo xây dựng môi trường văn hóa, tạo thuận lợi để mọi cá nhân có điều kiện phát triển toàn diện.

5. Giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, nhằm tạo điều kiện, môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế-xã hội.

 

IV. KHÂU ĐỘT PHÁ:

Để bảo đảm thực hiện có kết quả phương hướng, mục tiêu, chỉ tiêu chủ yếu, nhiệm vụ trọng tâm đã xác định, dồn sức 03 khâu đột phá sau:

1. Đẩy mạnh công tác cải cách hành chính, trọng tâm là cải cách thủ tục hành chính; siết chặt kỷ luật hành chính, trước hết là trong thực thi nhiệm vụ, công vụ; bảo đảm kỷ cương pháp luật, nhất là trên lĩnh vực đất đai, tài nguyên, khoáng sản, bảo vệ môi trường, đầu tư, quản lý tài chính và tài sản công.

2. Sớm khắc phục tình trạng thiếu đồng bộ của hệ thống kết cấu hạ tầng, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội; tập trung xây dựng các công trình phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân, ưu tiên đầu tư ở những vùng khô hạn, khu vực còn nhiều khó khăn, tạo thêm sinh kế, tăng thu nhập cho người dân.

3. Chấn chỉnh, nâng hiệu quả công tác đào tạo, dạy nghề, nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao về chất lượng nguồn nhân lực, trọng tâm là xây dựng đội ngũ cán bộ ngang tầm nhiệm vụ, trước hết là cán bộ chủ chốt các cấp, các ngành.

V. NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP CỤ THỂ:

          1. Ưu tiên giải quyết các vấn đề về phát triển nông nghiệp, nông thôn.

          1.1. Tập trung phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng bền vững, tạo ra sản phẩm hàng hóa lớn, giá trị gia tăng cao. Quán triệt, nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các cấp, các ngành, cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên và nhân dân, qua đó thúc đẩy tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng phù hợp, tiến bộ. Chú trọng việc chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ ngành nông nghiệp, tạo ra nhiều sản phẩm có giá trị kinh tế cao theo nhu cầu thị trường. Khuyến khích tích tụ, tập trung đất đai để sản xuất quy mô lớn. Tạo điều kiện thuận lợi để kinh tế tập thể, kinh tế hộ, gia trại, trang trại phát triển hiệu quả. Đẩy mạnh liên kết nhà nước-nhà khoa học-doanh nghiệp-nông dân trong chuỗi sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.

          (1) Phát huy hiệu quả các công trình thủy lợi hiện có và quan tâm đầu tư thủy lợi ở những vùng khô hạn, nhằm nâng cao tỷ lệ tưới chủ động và tăng thêm diện tích canh tác; cùng với việc tiếp tục đẩy mạnh khơi thông dòng chảy kênh, mương và sông, suối tự nhiên, chú ý huy động sức dân để phát dọn những đoạn, tuyến đã thực hiện trước đây, nhằm khắc phục tình trạng ngập úng. Chủ động phòng tránh thiên tai, biến đổi khí hậu, bảo đảm an toàn công trình và sản xuất; ứng phó có hiệu quả bão, lũ; kịp thời chống hạn, thoái hóa-sa mạc hóa đất đai và di dân ra khỏi vùng có nguy cơ cao về thiên tai, nhằm giảm thiểu thiệt hại. Đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất để nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm và tăng nhanh khối lượng hàng hóa nông sản xuất khẩu. Kiểm soát chặt chẽ chất lượng vật tư nông nghiệp; hỗ trợ người dân tiếp cận vốn vay ưu đãi. Kêu gọi đầu tư các dự án nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao; hình thành vùng sản xuất lớn chuyên canh cây trồng lợi thế (thanh long, cà phê, cây ăn quả, rau sạch), phấn đấu đến năm 2025, giá trị sản xuất bình quân trên 200 triệu đồng/ha canh tác. 

- Quan tâm đầu tư thâm canh toàn bộ diện tích canh tác lúa theo quy hoạch (10.700 ha), kết hợp với chuyển đổi cây trồng phù hợp với từng vụ, từng vùng. Từng bước thay dần bộ giống lúa hiện nay bằng các giống lúa chất lượng cao, lúa hữu cơ sử dụng tốt cho sức khỏe, giá trị thương phẩm cao, phục vụ cho nhu cầu ngày càng tăng của thị trường nội địa và tham gia xuất khẩu, bảo đảm sản lượng  lương thực bình quân hàng năm đạt 150.000 tấn.

- Tập trung sản xuất thanh long theo hướng bền vững, khuyến khích phát triển theo quy mô trang trại, đạt năng suất, chất lượng và hiệu quả cao; ứng dụng kỹ thuật sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP trên hầu hết diện tích, từng bước hình thành và phát triển sản xuất thanh long theo tiêu chuẩn GlobalGAP, nhằm đáp ứng yêu cầu mở rộng thị trường xuất khẩu. Tiếp tục phát triển và nâng cao chất lượng hoạt động các hợp tác xã thanh long, góp phần đa dạng hóa sản phẩm, nâng cao giá trị gia tăng của loại nông sản chủ lực này.

- Thực hiện sản xuất hữu cơ đối với vùng chuyên canh cây ăn quả và cà phê ở Đa Mi, kết hợp với phát triển du lịch. Khuyến khích phát triển các hợp tác xã rau sạch ở Phú Long để mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng sản phẩm. Hướng dẫn đồng bào dân tộc thiểu số ở các xã vùng cao chuyển đổi cây trồng phù hợp trên vùng đất đồi dốc, nhằm hạn chế tình trạng rửa trôi, giữ độ phì của đất; đẩy nhanh tiến độ tái canh cây cao su theo đề án của Tỉnh; sản xuất, thâm canh cây điều theo hướng hữu cơ, tăng năng suất để nâng cao giá trị xuất khẩu.

(2) Tiếp tục khuyến khích phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm theo mô hình trang trại, công nghiệp, bán công nghiệp, có kiểm soát an toàn dịch bệnh và bảo đảm an toàn về môi trường. Tạo điều kiện đẩy mạnh hình thức chăn nuôi gia súc ăn cỏ phù hợp với đặc điểm, điều kiện tự nhiên ở huyện; ổn định trang trại chăn nuôi heo tập trung hiện có đi đôi với kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn chủ đầu tư hoàn chỉnh hệ thống xử lý chất thải hiện đại, không để gây ô nhiễm môi trường và kiên quyết không tiếp nhận dự án đầu tư mới. Quy hoạch chi tiết sử dụng đất đai, giải quyết nguồn thức ăn, nước uống cho các vùng chăn nuôi tập trung, nhất là ở các vùng sản xuất nông lâm kết hợp và vùng trồng cây công nghiệp lâu năm. Tăng cường công tác thú y, quản lý chặt chẽ dịch bệnh, nhất là các bệnh dịch lây sang người. Xã hội hóa đầu tư xây dựng hệ thống trạm trại kỹ thuật phục vụ chăn nuôi, sản xuất con giống tốt; xây dựng các cơ sở giết mổ gia súc, gia cầm tập trung, đảm bảo cung cấp nguồn thực phẩm sạch cho thị trường.

(3) Tập trung phát triển diện tích rừng sản xuất gắn với kinh doanh du lịch sinh thái ở những nơi có điều kiện. Đẩy mạnh trồng rừng tập trung, trồng cây phân tán; tiếp tục giao khoán quản lý, bảo vệ rừng, phấn đấu đến năm 2025, nâng độ che phủ lên 65%. Tăng cường công tác bảo vệ và phát triển rừng; xử lý nghiêm các hành vi phá rừng, khai thác lâm sản trái phép, lấn chiếm đất lâm nghiệp. 

1.2. Đẩy mạnh phong trào thi đua “Chung sức, chung lòng xây dựng nông thôn mới”. Làm tốt công tác tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp, các ngành, cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên và phát huy vai trò chủ thể của người dân trong tham gia xây dựng nông thôn mới theo phương châm “Nhân dân làm, Nhà nước hỗ trợ”. Nâng chuẩn tiêu chí ở các xã đã được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới, đi đôi với tập trung hoàn thiện ở các xã còn lại; đẩy mạnh việc xây dựng Hàm Đức, Hàm Phú đạt chuẩn xã “nông thôn mới nâng cao” và Hàm Trí, Hồng Sơn đạt chuẩn xã “nông thôn mới kiểu mẫu”. Huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực để đầu tư các công trình thiết yếu phục vụ phát triển sản xuất, chăm lo đời sống nhân dân. Đẩy mạnh việc kiên cố hóa hệ thống giao thông và thủy lợi nội đồng, thực hiện tốt các tiêu chí văn hóa, xã hội, trật tự trị an. Phấn đấu đến cuối năm 2025, có 12/15 xã đạt 19 tiêu chí, 03 xã còn lại đạt 15-18 tiêu chí, đồng thời hoàn thiện cơ bản các tiêu chí nông thôn mới cấp huyện. 

1.3. Tiếp tục thực hiện tốt chính sách dân tộc và công tác dân tộc, nhằm tạo sự chuyển biến rõ nét hơn về dân sinh, kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Quan tâm đầu tư hệ thống nước sinh hoạt, giao thông và thủy lợi trong vùng sản xuất nông nghiệp thôn Dân Hiệp (Thuận Hòa), Kukê (Thuận Minh), các khu vực giao đất sản xuất theo Nghị quyết 04 của Tỉnh ủy (khóa X). Phối hợp thực hiện tốt chính sách đầu tư ứng trước, bao tiêu sản phẩm và quan tâm hướng dẫn đồng bào đầu tư thâm canh tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả cây trồng. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động đồng bào khắc phục tư tưởng trông chờ, ỷ lại; đề cao ý thức tự lực, phấn đấu vươn lên; nâng cao trách nhiệm tham gia xây dựng cuộc sống mới, nếp sống văn hóa, kiên quyết bài trừ các hủ tục lạc hậu, góp phần thu hẹp nhanh về khoảng cách với các vùng khác trong huyện.

2. Tích cực thu hút đầu tư, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế đẩy mạnh phát triển công nghiệp, thương mại, dịch vụ. Khẩn trương xây dựng và triển khai thực hiện quy hoạch để từng bước hình thành vùng kinh tế động lực: Phú Long-Hàm Đức-Hồng Liêm-Đa Mi-Ma Lâm; trong đó, tập trung phát triển khu thương mại-dịch vụ Phú Long và Hàm Đức (phía Bắc đường tránh Quốc lộ IA với quy mô khoảng 50 ha, thay cho xã Hàm Thắng); phát triển mạnh công nghiệp ở Hồng Liêm và Hàm Đức (dọc Quốc lộ IA và khu vực Tà-zôn); xây dựng trung tâm hành chính-dịch vụ Ma Lâm; thúc đẩy phát triển loại hình dịch vụ cao cấp-du lịch sinh thái Hồng Liêm, từng bước khai thác, phát huy tiềm năng du lịch ở xã Đa Mi.

2.1. Về công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp, ưu tiên phát triển công nghiệp chế biến nông lâm sản, phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu, công nghiệp năng lượng tái tạo, hình thành các nhà máy sản xuất công nghiệp sạch, bền vững và thân thiện với môi trường...có giá trị gia tăng cao trong chuỗi giá trị sản xuất.

- Vận dụng các cơ chế, chính sách ưu đãi của Trung ương và Tỉnh phù hợp với thực tiễn ở địa phương và đúng theo quy định để thu hút các dự án đầu tư sản xuất các sản phẩm công nghiệp mới, các sản phẩm tinh chế, nâng cao giá trị và sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường, từng bước tiến tới không xuất bán sản phẩm nguyên liệu thô.

- Chủ động, tích cực kêu gọi đầu tư hạ tầng cụm công nghiệp, cùng với ưu tiên bố trí nguồn vốn từ ngân sách phù hợp để giải phóng mặt bằng, đầu tư các công trình giao thông, điện, nước đến cụm công nghiệp Hàm Đức để thu hút đầu tư, tạo bức phá cho vùng kinh tế động lực này. Phối hợp với chủ dự án đẩy nhanh tiến độ xây dựng, sớm hoàn thành hệ thống kết cấu hạ tầng ở các cụm công nghiệp Phú Long và Hồng Liêm. Hỗ trợ đầu tư chuyển giao công nghệ và đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, tạo môi trường thuận lợi cho sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm các ngành nghề truyền thống, nhất là chế biến bún, bánh tráng, bánh hỏi, bánh phở, mộc dân dụng...

- Tiếp tục rà soát để nhanh chóng sắp xếp, chuyển vào các cụm công nghiệp đối với các cơ sở sản xuất công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp đang hoạt động tại những vị trí không phù hợp, gây ô nhiễm môi trường. Quan tâm đầu tư đồng bộ các dự án xử lý chất thải cho các cụm công nghiệp và làng nghề theo quy định về bảo vệ môi trường.  

  2.2. Khuyến khích, tạo điều kiện phát triển đa dạng các loại hình kinh doanh thương mại, dịch vụ phù hợp với nhu cầu tiêu dùng và khả năng chi trả của nhiều đối tượng, nhiều tầng lớp dân cư; trong đó chú trọng đến địa bàn còn khó khăn và bộ phận dân cư có mức thu nhập thấp.

- Tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế mở rộng quy mô, phạm vi hoạt động, nâng cao hiệu quả kinh doanh thương mại, dịch vụ. Đảm bảo khâu cung ứng vật tư, hàng hoá, tiêu thụ sản phẩm, hỗ trợ kỹ thuật cho các ngành sản xuất và dịch vụ, giúp cho người dân các xã miền núi, vùng cao được tiếp cận kịp thời với sản phẩm hàng hoá có chất lượng tốt, đáp ứng yêu cầu phát triển sản xuất và đời sống.

- Tiếp tục phát triển hệ thống chợ nông thôn, ưu tiên kêu gọi doanh nghiệp tự bỏ vốn đầu tư và khai thác; hoàn thành nâng cấp, mở rộng chợ Ma Lâm, phát huy hiệu quả chợ Phú Long, tiếp tục đầu tư chợ nông thôn còn lại theo quy hoạch.

- Quan tâm mời gọi các doanh nghiệp đầu tư vào diện tích còn lại của khu dân cư thương mại-dịch vụ Hàm Thắng-Hàm Liêm và phối hợp với Tỉnh thu hút đầu tư vào phân khu chức năng phía bắc kênh thoát lũ. Triển khai quy hoạch và từng bước đầu tư, nhằm tạo điều kiện để thu hút các dự án vào khu thương mại-dịch vụ Phú Long và Hàm Đức, đầu tư loại hình kho, bãi ở những khu vực thuận lợi về giao thông kết nối, xây dựng trung tâm hành chính-dịch vụ thị trấn Ma Lâm theo quy hoạch được duyệt. Tạo điều kiện để chủ đầu tư khai thác có hiệu quả khu dịch vụ cao kết hợp với khu du lịch sinh thái Rừng dầu Hồng Liêm. Kiến nghị UBND tỉnh sớm phê duyệt quy hoạch chi tiết khu du lịch Hàm Thuận-Đa Mi, khu du lịch hồ Sông Quao, để thuận lợi trong công tác thu hút đầu tư; trước mắt, ưu tiên việc liên kết giữa công ty du lịch với hộ gia đình để đầu tư loại hình du lịch dựa vào cộng đồng (homestay), kết hợp tham quan vườn cây ăn quả tại Đa Mi, từng bước hình thành tuyến du lịch Phan Thiết-Rừng dầu-Sông Quao-Đa Mi.

3. Huy động nhiều nguồn lực đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng theo hướng đồng bộ, đáp ứng yêu cầu phát triển. Tranh thủ kịp thời vốn ngân sách, các chương trình mục tiêu quốc gia, khai thác tốt nguồn vốn từ các dự án ODA, Jica, quỹ phát triển xanh...đi đôi với huy động hiệu quả nguồn nội lực, đồng thời vận dụng cơ chế, chính sách về thực hiện các dự án hợp tác công tư theo hình thức PPP, BT và kêu gọi đầu tư theo hình thức BOT, BTO..., phù hợp với tình hình thực tế và theo đúng quy định, để phát triển kết cấu hạ tầng, nhất là giao thông, thủy lợi, công trình thiết yếu phục vụ phát triển dân sinh, kinh tế. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của các cơ quan chức năng đi đôi với phát huy vai trò của hoạt động giám sát đầu tư cộng đồng, nhằm bảo đảm tiến độ và chất lượng công trình.

- Chủ động phối hợp với các sở, ngành của tỉnh làm tốt công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng, nhằm đẩy nhanh tiến độ xây dựng và sớm hoàn thành đưa vào sử dụng các công trình quan trọng, như: cao tốc Bắc-Nam phía Đông và đường sắt tốc độ cao Bắc-Nam, các tuyến đường kết nối sân bay Phan Thiết-Phú Long, Quốc lộ 28-Quốc lộ IA-ĐT706B; đường cứu hộ thiên tai dọc Kênh 812, Châu Tá-Sông Quao; nâng cấp, mở rộng đường ĐT711; các nhà máy nước Sông Quao và La Dạ...Dành ngân sách thỏa đáng và kiến nghị Tỉnh đầu tư thủy lợi ở các vùng khô hạn, nhất là các xã Hồng Liêm và Thuận Hòa, thôn Kukê (Thuận Minh) và các dự án đã khai hoang, cấp đất 04 cho đồng bào dân tộc thiểu số theo quy hoạch được duyệt. Quan tâm đầu tư điện hạ thế phục vụ sản xuất ở các vùng chuyên canh cây thanh long và điện sinh hoạt ở vùng sâu, vùng xa; tiếp tục mở rộng hệ thống nước sinh hoạt đến tất cả các xã, thị trấn. Đầu tư đồng bộ kết cấu hạ tầng các xã về đích nông thôn mới và xây dựng “nông thôn mới nâng cao”, “nông thôn mới kiểu mẫu”. Đẩy mạnh xã hội hóa đầu tư cơ sở vật chất giáo dục, y tế, văn hóa, thể dục, thể thao; tập trung xây dựng trường học và trạm y tế đạt chuẩn quốc gia, trung tâm văn hóa-thể thao xã và nhà văn hóa, khu thể thao thôn, khu phố.

- Đẩy mạnh việc xây dựng và triển khai các quy hoạch về xây dựng và phát triển đô thị. Tiếp tục đầu tư Kè Sông cái (Ma Lâm) phù hợp với khả năng cân đối vốn, chuẩn bị tốt các điều kiện để triển khai các dự án nhựa hóa nội thị Ma Lâm (giai đoạn 3), đường từ UBND thị trấn Ma Lâm-Quốc lộ IA; sớm xây dựng công viên Phú Long (phía trước chợ Phú Long) và mở rộng, hình thành thêm một số khu dân cư, phù hợp với không gian mở rộng thành phố Phan Thiết theo quy hoạch, đáp ứng nhu cầu đô thị hóa ở thị trấn Phú Long; kiến nghị tỉnh đầu tư các tuyến tránh Quốc lộ 28 (đoạn qua thị trấn Ma Lâm) và Quốc lộ IA (khu vực giáp ranh giữa thị trấn Phú Long và xã Hàm Đức), nhựa hóa nội thị Phú Long (giai đoạn 2); tiếp tục xây dựng các “tuyến phố văn minh”, chấn chỉnh và tăng cường công tác quản lý đô thị, nhất là về trật tự xây dựng, cảnh quang, môi trường..., nhằm thúc đẩy tiến độ chỉnh tranh bộ mặt đô thị.

4. Tăng cường các biện pháp quản lý, điều hành ngân sách. Tập trung quản lý, khai thác tốt đi đôi với nuôi dưỡng nguồn thu ngân sách trên địa bàn, tăng cường các biện pháp chống thất thu; thúc đẩy phát triển sản xuất, kinh doanh để  tạo nguồn thu mới ổn định, bền vững, số thu lớn; có kế hoạch khai thác từ quỹ đất theo hướng hợp lý, tiết kiệm để vừa bổ sung thêm nguồn vốn đầu tư kết cấu hạ tầng hiện nay, nhất là các khu thương mại và khu đô thị mới, vừa bảo đảm nguồn lực để phát triển trong tương lai. Phấn đấu giai đoạn 2021-2025, tốc độ thu ngân sách nhà nước tăng bình quân hàng năm 10%.

Điều hành chi ngân sách chặt chẽ, khoa học, tiết kiệm theo đúng các quy định của Luật ngân sách và theo dự toán được giao, quan tâm đúng mức cho yêu cầu đầu tư phát triển và giải quyết các vấn đề bức xúc của dân, sớm hoàn ứng dứt điểm khoản tạm ứng ngân sách tỉnh còn tồn đọng; chấp hành nghiêm quy định về công khai, minh bạch trong quản lý tài chính. Thường xuyên hướng dẫn và kiểm tra, thanh tra công tác quản lý, sử dụng tài chính, ngân sách và nguồn huy động theo quy chế dân chủ, chú ý cơ quan xã, thị trấn và trường học. Triển khai thực hiện nghiêm túc và hiệu quả chính sách tiền lương mới theo quy định.

5. Khuyến khích mở rộng các hoạt động tín dụng, ngân hàng. Tạo điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng thương mại mở chi nhánh trên địa bàn huyện và các quỹ tín dụng nhân dân mở rộng địa bàn, phạm vi, nâng cao hiệu quả hoạt động..., nhằm đảm bảo cho các thành phần kinh tế và người dân được tiếp cận với nhiều nguồn vốn, đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển sản xuất và kinh doanh thương mại, dịch vụ, chú ý vốn vay để đầu tư các dự án nông nghiệp công nghệ cao, sản xuất nông sản đạt tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP và các chương trình, dự án nâng cao thu nhập cho nông dân trong chuỗi giá trị sản xuất ngành nông nghiệp.

6. Chấn chỉnh, tăng cường các biện pháp quản lý nhằm bảo đảm kỷ cương pháp luật trên lĩnh vực đất đai, tài nguyên, khoáng sản, bảo vệ môi trường. Tuân thủ nghiêm quy định trong xây dựng, quản lý và tính hiệu quả trong triển khai thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, nhằm phục vụ tốt cho nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội. Khẩn trương rà soát, lập hồ sơ, thủ tục để quản lý chặt chẽ quỹ đất công ích, đất 5%, đất chưa sử dụng, trụ sở, trường học...để phát huy đúng mức hiệu quả của nguồn lực quan trọng này. Quy hoạch gắn với quản lý chặt chẽ, sử dụng hợp lý, hiệu quả quỹ đất dọc Quốc lộ IA, Quốc lộ 28, thị trấn Phú Long và các Hàm Hiệp, Hàm Thắng, Hàm Liêm, Hàm Đức, Hồng Liêm cho mục tiêu phát triển công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ.

- Thường xuyên kiểm tra nhằm phát hiện, xử lý kịp thời, kiên quyết các đối tượng vi phạm và trách nhiệm của tổ chức, cá nhân được giao nhiệm vụ quản lý, tham mưu theo đúng quy định, từng bước lập lại trật tự kỷ cương pháp luật, hạn chế sai phạm, nhất là tình trạng sử dụng đất sai mục đích, tự ý san ủi hoặc đổ đất, hình thành các khu dân cư tự phát không đáp ứng hạ tầng kỹ thuật, việc xây đựng nhà ở và công trình sai quy định trên đất nông nghiệp, khai thác khoáng sản trái phép và hành vi gây ô nhiễm môi trường. Khắc phục sai sót trong áp dụng pháp luật và thi hành không nghiêm các quyết định xử phạt vi phạm hành chính trên lĩnh vực này theo đúng quy định của pháp luật.

- Đẩy mạnh triển khai thực hiện Đề án đầu tư hệ thống thoát nước trong khu dân cư theo phương châm “Nhân dân làm, Nhà nước hỗ trợ”. Chủ động, tích cực huy động các nguồn vốn để đầu tư hệ thống xử lý nước thải sinh hoạt bảo đảm quy chuẩn trước khi đưa ra môi trường tự nhiên tại 02 thị trấn. Quy hoạch vị trí phù hợp để di dời các điểm thu mua phế liệu ra khỏi khu dân cư tập trung. Khuyến khích xã hội hóa hoạt động thu gom, xử lý rác thải, đi đôi với tích cực kêu gọi đầu tư nhà máy xử lý rác thải, trước mắt đôn đốc nhà đầu tư đẩy nhanh tiến độ dự án tại bãi rác Xã Thô (Hàm Trí); đồng thời kiến nghị Tỉnh hỗ trợ mua sắm thêm phương tiện, thiết bị vận chuyển rác thải tập trung. Tiếp tục xây dựng và nhân rộng mô hình “sáng, xanh, sạch, đẹp, an toàn” ở khu dân cư. Phát động sâu rộng trong cộng đồng về hạn chế việc sử dụng túi nhựa, chai nhựa..., không phát thải các chất thải nhựa ra môi trường và phân loại rác thải tại nguồn (hộ gia đình). Có giải pháp phù hợp nhằm bảo đảm thu gom, xử lý trên 95% rác thải nguy hại vào năm 2025.

7. Phát triển toàn diện giáo dục-đào tạo, đẩy mạnh các hoạt động khoa học-công nghệ. Khuyến khích, tạo điều kiện phát triển đa dạng các loại hình giáo dục và đào tạo theo hướng xã hội hóa, nhằm không ngừng nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, tạo ra nguồn nhân lực mới, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Quán triệt và triển khai thực hiện tốt chương trình giáo dục phổ thông, nâng cao chất lượng giáo dục các cấp học, bậc học, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số; duy trì và nâng chuẩn phổ cập giáo dục và xóa mù chữ, gắn với quan tâm xây dựng xã hội học tập; thực hiện tốt công tác phân luồng học sinh trung học đi học nghề. Phấn đấu đến năm 2025, có 60% trường đạt chuẩn quốc gia, các chỉ tiêu về phát triển giáo dục mầm non và phổ thông bằng hoặc cao hơn các chỉ số trung bình của tỉnh.

- Nâng chất lượng, hiệu quả công tác đào tạo nghề; tăng cường liên kết giữa Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp-Giáo dục thường xuyên huyện với các trường trung cấp, cao đẳng nghề và doanh nghiệp, khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia công tác dạy nghề, ưu tiên đào tạo các ngành, nghề xã hội đang cần, góp phần nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo lên 75% vào năm 2025. Gắn kết chặt chẽ giữa đào tạo nghề với giải quyết việc làm; quan tâm dạy nghề và giải quyết việc làm cho lao động nông thôn, gia đình chính sách, hộ nghèo, bộ đội xuất ngũ, đối tượng thuộc diện giải phóng mặt bằng, học sinh trung học không có điều kiện học lên các bậc cao hơn; chú ý thu hút, tạo việc làm cho sinh viên tốt nghiệp cao đẳng, đại học.

- Coi trọng việc tổng kết thực tiễn, góp phần vào việc hoàn thiện lý luận. Quan tâm đúng mức công tác biên soạn và xuất bản lịch sử truyền thống, nhất là lịch sử Đảng bộ huyện và các xã, thị trấn; đẩy mạnh việc giảng dạy lịch sử địa phương trong trường học và Trung tâm chính trị huyện.

- Khuyến khích doanh nghiệp, hộ sản xuất, kinh doanh và nhân dân đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất và đời sống, nhất là thành tựu do cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 mang lại. Tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành chức năng, doanh nghiệp đầu tư và dành một phần ngân sách huyện để nâng cấp hạ tầng công nghệ thông tin, nhằm đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới; tiếp tục mở rộng đi đôi với nâng hiệu quả ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý, điều hành; đẩy mạnh áp dụng chữ ký số và gởi, nhận văn bản, tài liệu qua mạng và kiến nghị Tỉnh sớm đầu tư kết nối hệ thống truyền hình trực tuyến đến xã, thị trấn; chú trọng đúng mức việc bảo đảm an toàn, an ninh thông tin mạng.

8. Nâng chất lượng y tế, quan tâm chăm sóc sức khỏe nhân dân. Phát triển đồng bộ hệ thống y tế trên địa bàn huyện, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng và đa dạng của nhân dân về bảo vệ, chăm sóc sức khỏe; giảm tỷ lệ mắc bệnh; tăng tuổi thọ; cải thiện chất lượng cuộc sống.  

- Tiếp tục đầu tư cở sở vật chất, phấn đấu toàn huyện có 315 giường bệnh và nâng thêm tỷ lệ bác sỹ để bảo đảm nhu cầu khám, chữa bệnh của nhân dân, chú trọng giáo dục y đức cho cán bộ, nhân viên y tế; tăng cường công tác y tế dự phòng, chủ động kiểm soát, không để dịch lớn xảy ra. Đẩy mạnh xã hội hóa đi đôi với quản lý tốt hành nghề y dược tư nhân; tiếp tục phát triển hoạt động y học cổ truyền. Thực hiện có kết quả chủ trương bảo hiểm y tế toàn dân, phấn đấu đến năm 2025, tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế đạt 95%.

- Tập trung giữ chuẩn quốc gia các trạm y tế; thực hiện tốt các chương trình y tế quốc gia, quan tâm chăm sóc sức khỏe bà mẹ-trẻ em, công tác dân số-kế hoạch hóa gia đình, nhằm bảo đảm mức sinh thấp, hợp lý và giảm mất cân bằng giới tính;  bảo đảm vệ sinh môi trường và vệ sinh an toàn thực phẩm.

9. Đẩy mạnh các hoạt động văn hóa, thông tin, tuyên truyền, thể dục, thể thao. Chú trọng đưa văn hóa thông tin về cơ sở, đặc biệt là công tác tuyên truyền  các chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhằm đáp ứng yêu cầu nâng cao nhận thức và hiểu biết cho người dân. Tiếp tục nâng chất lượng phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” gắn với cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”; đến năm 2025, tỷ lệ “gia đình văn hóa” trên 90%, “thôn, khu phố văn hóa”  hơn 80% và 95% cơ quan, đơn vị đạt chuẩn văn hóa.

- Tiếp tục rà soát nắm chắc để có kế hoạch quản lý, phát huy các công trình văn hóa-lịch sử, nhất là bia, đài tưởng niệm liệt sỹ, địa chỉ đỏ..., để tạo thêm nguồn lực tinh thần; tổ chức tốt các lễ hội truyền thống và văn hóa dân gian, nhằm tăng cường sự gắn kết và phát huy tính cộng đồng hướng về cội nguồn. Tăng cường kiểm soát, chấn chỉnh các hoạt động kinh doanh dịch vụ văn hóa, bài trừ văn hóa đồi trụy và các phong tục, tập quán lạc hậu.

- Thực hiện tốt chủ trương xã hội hóa đầu tư xây dựng thiết chế văn hóa cơ sở (thư viện, trạm truyền thanh, nhà văn hóa, phòng truyền thống, khu vui chơi giải trí...), trong mối quan hệ chặt chẽ với đầu tư cơ sở vật chất thể dục, thể thao và du lịch. Hình thành các khu văn hóa, thể dục, thể thao tổng hợp ở xã, thị trấn; nâng mức hưởng thụ văn hóa tinh thần cho nhân dân. Coi trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa thông tin, kích thích phát triển khả năng sáng tạo văn hóa, văn nghệ của các tầng lớp dân cư.

- Đẩy mạnh phong trào thể dục, thể thao quần chúng theo hướng xã hội hóa, chú ý xây dựng, phát triển phong trào trong trường học, đội ngũ công chức, viên chức và lực lượng vũ trang, làm hạt nhân thúc đẩy, tạo sự lan tỏa rộng khắp trong cộng đồng, góp phần thực hiện chiến lược phát triển con người toàn diện cả về thể chất và trí tuệ, đáp ứng yêu cầu tăng cường sức khỏe, nâng cao năng suất lao động, học tập, công tác, bảo vệ quốc phòng, an ninh và đẩy lùi các tệ nạn xã hội; đồng thời qua đó, phát hiện và bồi dưỡng vận động viên năng khiếu, tổ chức huấn luyện, thi đấu, tuyển chọn vận động viên các môn thể thao thành tích cao, bổ sung nguồn cho tỉnh tham gia thi đấu cấp khu vực và quốc gia. Phấn đấu, tỷ lệ dân số tham gia tập luyện thể dục, thể thao thường xuyên trên 40% vào năm 2025.

          10. Thực hiện công bằng xã hội, chăm lo đời sống cho nhân dân. Quan tâm chăm sóc, bảo vệ, thúc đẩy thực hiện quyền của trẻ em; bảo đảm bình đẳng giới và sự tiến bộ của phụ nữ; phát huy đúng mức vai trò người cao tuổi. Tiếp tục triển khai có kết quả các chính sách bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao thu nhập cho người lao động. Chú trọng thực hiện các giải pháp giảm nghèo bền vững theo hướng tích cực; tăng cường khả năng tiếp cận các chính sách, chương trình giảm nghèo của Nhà nước đi đôi với đề cao ý thức nỗ lực, phấn đấu vươn lên của người nghèo. Bằng những hình thức phù hợp, tiếp tục đẩy mạnh phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”, quan tâm chăm lo cho đối tượng chính sách. Xây dựng mô hình bảo trợ xã hội dựa vào cộng đồng; tiếp tục đổi mới công tác trợ giúp xã hội thường xuyên và đột xuất, trên cơ sở lồng ghép thực hiện có hiệu quả các chương trình mục tiêu quốc gia bằng nguồn vốn ngân sách, viện trợ quốc tế, hỗ trợ từ doanh nghiệp và cộng đồng, gắn với phong trào của quần chúng, góp phần giảm nghèo vững chắc.

          11. Tiếp tục xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc. Tập trung xây dựng khu vực phòng thủ huyện theo phương án đã xác định; quan tâm giáo dục, nâng cao ý thức cảnh giác cách mạng trong cộng đồng. Thường xuyên củng cố, xây dựng lực lượng vũ trang huyện đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới và Ban chỉ huy quân sự xã, thị trấn vững mạnh toàn diện; thực hiện tốt công tác tuyển chọn và gọi công dân nhập ngũ, nâng chất lượng công tác huấn luyện, diễn tập. Tăng cường công tác trực sẵn sàng chiến đấu đi đôi với nắm chắc tình hình, đối tượng và kịp thời giải quyết mọi tình huống xảy ra, không để bị động, bất ngờ.

          Phát huy đúng mức vai trò của đội ngũ công an chính quy đã bố trí ở các xã, thị trấn; bảo đảm thực chất trong xây dựng cơ quan, đơn vị và xã, thị trấn đạt tiêu chuẩn “An toàn về an ninh trật tự”. Tăng cường công tác đấu tranh trấn áp tội phạm, xử lý vi phạm, đi đôi với thực hiện tốt các biện pháp phòng ngừa xã hội; nâng chất lượng phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”; quan tâm đúng mức việc giáo dục, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật trong cộng đồng, nhất là đối tượng thanh, thiếu niên; tiếp tục xây dựng và nhân rộng các mô hình “tự quản, tự phòng, tự bảo vệ”; thực hiện đồng bộ, quyết liệt các giải pháp kiềm chế phạm pháp hình sự, tai nạn giao thông, tệ nạn xã hội, vi phạm về môi trường và ngăn chặn có kết quả hoạt động cho vay lãi nặng, tín dụng đen..., góp phần giữ vững an ninh chính trị và bảo đảm trật tự an toàn xã hội.

          12. Tăng cường hơn nữa công tác xây dựng Đảng và xây dựng hệ thống chính trị, nhằm đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới. Tiếp tục sắp xếp bộ máy, tinh giản biên chế và xây dựng đội ngũ cán bộ ngang tầm nhiệm vụ theo chủ trương của Đảng và pháp luật của Nhà nước, trọng tâm là Nghị quyết Trung ương 6, 7 (khóa XII) và Luật Tổ chức Chính quyền địa phương (sửa đổi, bổ sung).

12.1. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và năng lực điều hành của bộ máy hành chính từ huyện đến cơ sở.

(1) Thường xuyên cải tiến, đổi mới nâng chất lượng hoạt động của HĐND các cấp, nhất là chất lượng các kỳ họp và hoạt động tiếp xúc cử tri; tăng cường hơn nữa hoạt động giám sát, tập trung những vấn đề bức xúc mà người dân quan tâm;  chú trọng đúng mức việc theo dõi, đôn đốc xử lý, giải quyết kịp thời và có kết quả kiến nghị chính đáng của cử tri; giảm số lượng hợp lý theo quy định đi đôi với nâng chất lượng đại biểu HĐND, phát huy đúng mức vai trò của thường trực, các ban và đại biểu dân cử, nhằm đáp ứng sự kỳ vọng của cử tri và nhân dân. 

(2) Tiếp tục đẩy mạnh công tác cải cách hành chính, trọng tâm là cải cách thủ tục hành chính, nâng cao dịch vụ công trực tuyến. Ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin vào hoạt động quản lý, điều hành của cơ quan hành chính, đặc biệt là cấp xã; mở rộng áp dụng ISO đối với các xã, thị trấn.

- Thực hiện nghiêm túc Luật Tiếp công dân, Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo; giải quyết kịp thời các vụ việc mới phát sinh ngay từ cơ sở, góp phần hạn chế tình trạng khiếu kiện đông người, vượt cấp.

- Đổi mới phương pháp chỉ đạo, điều hành theo hướng gần dân, sát địa bàn, nắm chắc tình hình; thực hiện quản lý hành chính theo Đề án vị trí việc làm, nâng cao hiệu quả công tác phối hợp giữa các ngành của huyện với nhau và với xã, thị trấn, khắc phục cả hai xu hướng, bỏ trống lĩnh vực hoặc chồng chéo, đùn đẩy trách nhiệm. Phát huy tính chủ động, sáng tạo và đạo đức công vụ, trách nhiệm xã hội, siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong chỉ đạo, điều hành và thực thi công vụ của cán bộ, công chức, nhất là người đứng đầu.

          (3) Phối hợp với ngành cấp trên tiếp tục đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị và xây dựng tổ chức, đội ngũ cán bộ có chức danh tư pháp phù hợp, đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ cải cách tư pháp; quan tâm hỗ trợ kinh phí hoạt động; chấn chỉnh và tăng cường công tác phối hợp nhằm nâng chất lượng điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Thường xuyên củng cố tổ chức Đảng, nâng bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức của đội ngũ đảng viên trong các cơ quan tư pháp, tạo động lực trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của từng cơ quan, đơn vị.

12.2. Đẩy mạnh hơn nữa phong trào thi đua “dân vận khéo”. Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức nhằm nâng hiệu quả hoạt động của Mặt trận, đoàn thể, hội quần chúng, khắc phục biểu hiện “hành chính hóa”, “công chức hóa”. Hướng mạnh hoạt động và phong trào về cơ sở, chăm lo lợi ích thiết thực, chính đáng của đoàn viên, hội viên và nhân dân; đa dạng hình thức tập hợp, phấn đấu kết nạp 70% quần chúng vào tổ chức; xây dựng cốt cán chính trị đúng thực chất, số lượng hợp lý, chiếm 4-5% đoàn viên, hội viên. Nâng chất lượng hoạt động giám sát, tăng cường hơn nữa công tác phản biện xã hội, phát huy đúng mức vai trò tham gia xây dựng Đảng, chính quyền của Mặt trận, đoàn thể các cấp.

Chấn chỉnh và tăng cường công tác dận vận chính quyền, tập trung phát triển sản xuất, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, lắng nghe và giải quyết kịp thời khó khăn, bức xúc của dân; chăm lo phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số; thực hiện tốt chính sách tín ngưỡng, tôn giáo; vận động đồng bào định cư ở nước ngoài góp phần xây dựng quê hương. Tiếp tục thực hiện có kết quả quy chế dân chủ ở cơ sở, chú ý cơ quan xã, thị trấn và trường học; giữ vững kỷ cương pháp luật đi đôi với phê phán và xử lý nghiêm những hành vi vi phạm quyền làm chủ của dân, lợi dụng dân chủ để gây rối, phá hoại khối đoàn kết toàn dân, củng cố lòng tin và sự đồng thuận của nhân dân, phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân, vận động nhân dân tích cực hưởng ứng các phong trào hành động cách, phong trào thi đua yêu nước, thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của địa phương.

12.3. Tập trung xây dựng và chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII), gắn với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, khắc phục các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự chuyển biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.

(1) Tiếp tục đổi mới, nâng chất lượng công tác tư tưởng; nắm chắc quan điểm, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước để làm tốt công tác tuyên truyền, vận động, giáo dục nâng cao nhận thức và trách nhiệm trong cán bộ, đảng viên và nhân dân; có giải pháp khắc phục biểu biện “chán Đảng, khô Đoàn, nhạt chính trị”, phát hiện và chấn chỉnh một số vấn đề chưa thống nhất về nhận thức trong nội bộ, nắm bắt và định hướng kịp thời dư luận xã hội, chủ động đấu tranh có kết quả với các luận điệu sai trái, thù địch, thông tin xấu độc trên mạng xã hội. Trên cơ sở chỉ đạo, hướng dẫn của trên, tập trung đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh theo hướng thực chất đi đôi với tiếp tục thực hiện nghiêm túc các quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ chốt và người đứng đầu các cấp, giáo dục cán bộ, đảng viên phải thường xuyên tự soi”, “tự sửa”; qua đó nâng cao bản lĩnh chính trị, phát huy tính năng động, sáng tạo, tự giác, tinh thần đoàn kết, gương mẫu rèn luyện, ý thức tổ chức kỷ luật, xây dựng lối sống lành mạnh, nêu cao tinh thần trách nhiệm trong công việc, tận tụy phục vụ nhân dân của mỗi cán bộ, đảng viên.

(2) Tăng cường công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí; kiên quyết kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ, không để phát sinh nạn chạy chức, chạy quyền hoặc tiếp tay, bao che cho hành vi chạy chức, chạy quyền...theo Quy định số 205 của Bộ Chính trị (khóa XII); đẩy mạnh các hoạt động kiểm tra, giám sát, tập trung các lĩnh vực nhạy cảm, dễ phát sinh tiêu cực, việc chấp hành các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu; chú trọng công tác tự kiểm tra của từng cơ quan, đơn vị nhằm phát hiện và chủ động xử lý các vụ việc tham nhũng, tiêu cực, tập trung trước hết đối với các hành vi tham nhũng vặt, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân về sự lãnh đạo, điều hành của cấp ủy, chính quyền ở địa phương.

(3) Nâng cao năng lực lãnh đạo, nhất là năng lực vận dụng, cụ thể hóa và khả năng dự báo của cấp ủy, trước hết là Huyện ủy, Ban Thường vụ Huyện ủy, bảo đảm chương trình, kế hoạch đề ra phải phù hợp với nghị quyết của Đảng và sát thực tiễn, đáp ứng nguyện vọng của nhân dân. Thực hiện nghiêm nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tự phê bình và phê bình; giữ vững đoàn kết thống nhất nội bộ, đề cao trách nhiệm của tập thể, cá nhân và người đứng đầu cấp ủy. Tiếp tục đổi mới công tác chỉ đạo, điều hành, cải tiến lề lối làm việc theo hướng “sát việc, gần dân”, giảm số lượng và nâng chất lượng hội họp, tăng cường bám cơ sở, phát hiện và xử lý kịp thời những vấn đề nảy sinh trong thực tế theo phạm vi trách nhiệm của mình.

(4) Tập trung xây dựng tổ chức cơ sở đảng vững mạnh, phát huy vai trò hạt nhân lãnh đạo của chi bộ, nhất là ở địa bàn thôn, khu phố; tiếp tục cải tiến, nâng chất lượng sinh hoạt chi bộ, cấp ủy; chấn chỉnh, tăng cường công tác phân công, quản lý đảng viên; đẩy mạnh công tác tạo nguồn và phát triển đảng viên, quan tâm kết nạp đảng viên ở địa bàn dân cư, phấn đấu đạt chỉ tiêu đề ra đi đôi với bảo đảm chất lượng; đồng thời kiên quyết rà soát, sàng lọc, đưa những đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng; quyết tâm khắc phục tính hình thức, biểu hiện chạy theo thành tích để bảo đảm việc đánh giá, phân loại tổ chức cơ sở Đảng và đảng viên hàng năm đúng thực chất. Duy trì nề nếp đi đôi với phát huy đúng mức hiệu quả việc chất vấn và trả chất vấn trong Đảng; thực hiện nghiêm chủ trương về định kỳ lấy phiếu tín nhiệm các chức danh chủ chốt của cấp ủy và những người do HĐND bầu. Tăng cường hơn nữa công tác bảo vệ nội bộ Đảng, coi trọng “chính trị hiện nay hơn lịch sử chính trị, đầu vào hơn đầu ra, sử dụng hơn xử lý...”, theo quan điểm của Đảng.

(5) Tích cực đổi mới, nâng chất lượng công tác tổ chức và cán bộ, không để lọt vào cấp ủy, bộ máy nhà nước, tổ chức chính trị-xã hội những trường hợp suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, chạy chức, chạy quyền, tham nhũng, có nhiều dư luận không tốt, bản thân hoặc vợ (chồng), con vi phạm pháp luật...Căn cứ chỉ đạo, hướng dẫn của trên, tập trung củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, trọng tâm là sáp nhập các cơ quan, đơn vị có nhiệm vụ tương đồng, gắn với tinh giản biên chế, giảm cấp phó hợp lý và theo đúng quy định. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, các ngành ngang tầm nhiệm vụ theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 7 (khóa XII); rà soát, ban hành đầy đủ và thực hiện nghiêm các quy định, quy chế về công tác cán bộ; tiếp tục đổi mới công tác đánh giá cán bộ theo hướng thực chất; nâng chất lượng quy hoạch cán bộ; quan tâm luân chuyển để đào tạo, bồi dưỡng, tạo nguồn cán bộ cấp huyện; đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ mọi mặt, nhằm bảo đảm tiêu chuẩn, khắc phục trình trạng hẫng hụt, gắn với bố trí, sử dụng hợp lý đội ngũ cán bộ; tăng cường các biện pháp quản lý, giáo dục, kiên quyết thay thế cán bộ uy tín giảm sút, không hoàn thành nhiệm vụ, không chờ hết nhiệm kỳ, hết thời gian bổ nhiệm; thực hiện tốt các chế độ, chính sách cán bộ.

(6) Quan tâm xây dựng ủy ban kiểm tra và đội ngũ chuyên trách công tác kiểm tra các cấp đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới. Tăng cường hơn nữa công tác kiểm tra, giám sát của cấp ủy và ủy ban kiểm tra các cấp, tập trung kiểm tra, giám sát việc chấp hành Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thực hiện nhiệm vụ của người đảng viên, chấp hành các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng, thực hành tiết kiệm và phòng, chống tham nhũng, lãng phí, vai trò của người đứng đầu trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao và hoạt động tự kiểm tra của từng cấp ủy, chi bộ; chú ý hơn việc kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm và mở rộng giám sát, nhằm kịp thời chấn chỉnh thiếu sót và xử lý nghiêm vi phạm. Phối hợp đồng bộ giữa công tác kiểm tra, giám sát của Đảng với công tác thanh tra của Nhà nước và hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể chính trị-xã hội và nhân dân; tiếp tục khắc phục tình trạng trùng lắp về nội dung, đối tượng; chú trọng đúng mức việc phúc tra và theo dõi, đôn đốc khắc phục sau kiểm tra, giám sát, nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác này.

 


[1]    Kế hoạch số 79-KH/HU, ngày 17/4/2017 của Huyện ủy (khóa XI) thực hiện Nghị quyết số 14 của Tỉnh ủy (khóa XIII) về nông nghiệp, nông dân, nông thôn gắn với tiếp tục đẩy mạnh xây dựng nông thôn mới đến năm 2025.

[2]
      Ước cuối 2020, có khoảng 4.000 ha (44,44%) thanh long được cấp chứng nhận VietGAP; hơn 30% diện tích thanh long sử dụng nước tiết kiệm bằng công nghệ tưới nhỏ giọt.

[3]    Từ nguồn vốn ngân sách, đã xây dựng thêm chợ Phú Long, Hồng Sơn, Hàm Chính, Đa Mi, Hàm Liêm, Hàm Thắng, Thuận Hòa và nâng cấp, mở rộng các chợ thị trấn Ma Lâm, Phú Điền (Hàm Phú), Hiệp Phú (Hàm Hiệp). Kêu gọi doanh nghiệp đầu tư xây dựng mới các chợ SaRa (Hàm Đức), Bình An (Hàm Chính).

[4]    Đầu tư xây dựng các công viên Ruộng Dinh và Ngã 3 Ngân hàng, cổng chào, kè sông Cái và khu dân cư, chỉnh trang vỉa hè đường 8-4...

[5]    Đã kịp thời điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020, kế hoạch sử dụng đất 05 năm kỳ cuối (2016-2020); thực hiện công tác kiểm kê đất đai, công khai kế hoạch sử dụng đất hàng năm theo quy định.

[6]    Hoàn thành giải quyết tồn đọng về giao đất ở tại Ma Lâm, Hàm Liêm; khai hoang, cấp đất sản xuất cho đồng bào các xã Đông Giang, La Dạ như đã đề cập...

[7]    Hiện có 57 cơ sở giáo dục ngoài công lập đang hoạt động trên địa bàn huyện (tăng 31 cơ sở so năm 2015), chủ yếu là giáo dục mầm non, giữ trẻ...

[8]    Nhà bia liệt sỹ huyện, bia chiến thắng 8/4, Đài tưởng niệm liệt sỹ, Nhà truyền thống và bia Tân Nông (Hàm Liêm), bia Kim Bình (Hàm Thắng)...

[9]    Toàn huyện có 285 giường bệnh (Bệnh viện huyện 150, Phòng khám đa khoa 50 và các Trạm y tế xã 85 giường) và 399 cán bộ y tế (38 bác sĩ, 236 y sĩ và kỹ thuật viên, 86 y tá và cán bộ y tế khác, 39 cán bộ dược).

[10]  Đến nay, có 116 cơ sở y tế ngoài công lập (tăng 32 so với năm 2015); trong đó khám chữa bệnh 04, dịch vụ kích thuốc 02; phòng chẩn trị y học dân tộc 01; quầy thuốc tân dược 106; cơ sở kinh doanh thuốc tân dược 03.

[11]  Toàn huyện có 16 sân bóng đá 11 người, 07 sân bóng đá mini bằng cỏ nhân tạo, 20 sân bóng chuyền, 18 sân cầu lông, 01 nhà luyện tập thi đấu thể dục thể thao; hưởng ứng chương trình phòng, chống đuối nước trẻ em, đã có 11 hồ bơi đầu tư theo hình thức xã hội hóa. 

[12]  Huyện mở 69 đợt tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật cho 14.037 lượt người tham dự và 13 lớp bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh cho 893 cán bộ, công chức, viên chức và người lao động. 

[13]  Cán bộ, công chức cấp huyện ngoài trình độ thạc sỹ 04/130 (tỷ lệ 3,07%), hầu hết có trình độ đại học (124, chiếm 95,38%), chỉ có 01 cao đẳng (tỷ lệ 0,77%) và 01 trung cấp (tỷ lệ 0,77%). Phê chuẩn, tuyển dụng, bố trí 127 cán bộ, công chức và cán bộ không chuyên trách xã, thị trấn; cử 35 cán bộ, công chức xã, thị trấn học đại học Luật và hơn 300 lượt cán bộ, công chức xã bồi dưỡng nghiệp vụ; đến nay, có 398/400 cán bộ, công chức cấp xã đạt chuẩn theo quy định.

[14]  Đã sáp nhập 12 trường học như nêu trên, thành lập Trung tâm Văn hóa-Thông tin và Thể thao huyện (sáp nhập Đài Truyền thanh và Trung tâm Văn hóa-Thể thao huyện) và phối hợp với ngành chức năng của Tỉnh thành lập Trung tâm dịch vụ và kỹ thuật nông nghiệp. Đã giảm 15 biên chế theo lộ trình xác định.

[15] Tiếp công dân 1.853 lượt/1.918 người. Đã giải quyết 1.823/1.827 đơn, đạt 99,78% (tố cáo 25/25, khiếu nại 131/131, tranh chấp 673/673 và kiến nghị, phản ánh 994/998 đơn).

[16]  Từ năm 2017 đến, Mặt trận, đoàn thể huyện đã tổ chức 06 cuộc phản biện đối với 07 dự thảo văn bản của cấp ủy, chính quyền (Huyện ủy, Ban Thường vụ Huyện ủy 04 và UBND huyện 03).

[17]  Định kỳ tổ chức khảo sát dư luận xã hội và thường xuyên thông tin thời sự, những vụ việc nhạy cảm, dư luận quan tâm; tập trung chỉ đạo giải quyết đơn, thư và các vụ, việc nổi cộm tồn đọng, kiến nghị chính đáng của cử tri và bức xúc trong dân.

[18]  Tổ chức thẩm định nội dung tập huấn, bồi dưỡng của từng tổ chức cơ quan, đơn vị theo hướng bám sát thực tiễn hoạt động ở cơ sở. Gần đây tổ chức bồi dưỡng, cập nhật kiến thức cho đảng viên, công chức, viên chức.

[19]  Nghị quyết Trung ương 6 (khóa X) và Chương trình hành động 15 của Tỉnh ủy (khóa XII) về nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên; Kết luận 18 của Ban Bí thư (khóa X) và Kế hoạch 76 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy (khóa XIII) về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chỉ thị 10-CT/TW của Ban Bí thư (khóa X) về nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ trong tình hình mới...

[20]  Tiếp nhận 02 chi bộ doanh nghiệp và bàn giao 02 cơ sở đảng về ngành cấp trên; thành lập 02 chi bộ cơ sở; hợp nhất và thành Đảng bộ Trung tâm y tế huyện; nâng cấp Chi bộ Trường phổ thông trung học Hàm Thuận Bắc lên Đảng bộ; chuyển 02 chi bộ cơ sở về trực thuộc Đảng ủy cơ sở; giải thể 02 cơ sở đảng; chỉ đạo Đảng ủy các xã, thị trấn sắp xếp 19 chi bộ trường học sau sáp nhập. Đến nay, toàn huyện có 37 cơ sở Đảng, giảm 03 so đầu nhiệm kỳ; trong đó 23 đảng bộ cơ sở và 14 chi bộ cơ sở, với 233 chi bộ trực thuộc.

[21] Tỷ lệ cơ sở Đảng hoàn thành tốt nhiệm vụ và hoàn thành nhiệm vụ chiếm đa số (60-70%), trong sạch vững mạnh (hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ) giảm từ 43,24% (năm 2016) xuống còn 11% (năm 2019). Đảng viên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chiếm 7-8%, chủ yếu hoàn thành tốt nhiệm vụ (60-70%) và hoàn thành nhiệm vụ (15-20%).

[22] Cử học cao cấp chính trị 28 và trung cấp 41, quản lý nhà nước chương trình chuyên viên chính 15 và chuyên viên 27; đại học chuyên môn 9; phối hợp mở 4 lớp trung cấp chính trị-hành chính cho 308; đào tạo sơ cấp lý luận chính trị 65; bồi dưỡng chức danh lãnh đạo, quản lý 10; cử đi bồi dưỡng công tác xây dựng Đảng 33; mở 2 lớp bồi dưỡng nghiệp vụ công tác đảng cho 405 cấp ủy viên, bí thư cấp ủy cơ sở và 60 lớp tập huấn, bồi dưỡng khác.

[23] Bổ nhiệm 224 lượt cán bộ, bổ nhiệm lại 67 đồng chí, giới thiệu ứng cử các chức danh lãnh đạo cấp huyện và cơ sở 121 trường hợp; cho thôi tham gia cấp ủy viên huyện 4 đồng chí.

[24]  Cấp ủy các cấp kiểm tra 575 lượt tổ chức đảng cấp dưới và 185 đảng viên, giám sát 199 lượt tổ chức đảng cấp dưới và 206 đảng viên; Đảng ủy cơ sở kiểm tra dấu hiệu vi phạm 06 đảng viên, ủy ban kiểm tra các cấp kiểm tra 02 tổ chức đảng và 37 đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm, kiểm tra tài chính đảng 15 tổ chức đảng; giám sát chuyên đề 117 tổ chức đảng cấp dưới và 105 đảng viên; các Ban và Văn phòng Huyện ủy kiểm tra 13, phúc tra 01 và giám sát 02 cuộc đối với 99 lượt tổ chức đảng và 08 đảng viên.

[25]  Tiềm năng đất đai, lao động và du lịch ở Đa Mi, Sông Quao; lợi thế của địa bàn giáp ranh thành phố Phan Thiết và của ngõ kết nối với khu vực Tây Nguyên...

[26]  Bổ sung Huyện ủy viên và Ủy viên Ban Thường vụ (khóa XI), bố trí Chủ tịch Liên đoàn Lao động huyện nhiệm kỳ 2013-2018...

[27]  Một số trường hợp bổ nhiệm, bổ nhiệm lại không bảo đảm tiêu chuẩn theo quy định; có trường hợp do nắm không chắc về chính trị hiện nay, nên điều động, bố trí chưa thật sự phù hợp...

[28]  Cơ chế, chính sách về xây dựng nông thôn mới, chia tách địa giới hành chính, phân loại tổ chức cơ sở Đảng... thay đổi; số liệu thống kế về dân số biến động; thời tiết diễn biến bất thường, giá cả nông sản bấp bênh...

[29]  Cao tốc Bắc-Nam phía Đông và đường sắt tốc độ cao Bắc-Nam; tuyến tránh Quốc lộ IA; mở rộng Quốc lộ 28 và tuyến tránh Quốc lộ 28; sân bay Phan Thiết và đường kết nối sân bay-Phú Long; nâng cấp mở rộng đường ĐT711...

 

kèm file.


Các tin khác